Sách Truyện cười Việt Nam 2014

by in , , 0

     Anh Nông Dân Và Thần Núi
     Chuyện này đã lâu lắm rồi. Một anh nông dân quanh quẩn thế nào một hôm lại lạc vào rừng sâu và gặp ngay thần Núi. Phải nói rỏ ràng anh nông dân chỉ mới biết bóng dáng của thần Núi qua các tranh vẽ mà thôi. Nhìn thấy anh, thần núi quát tướng lên:
      - Anh kia, mi là người trần! Phải biết rằng ai đã đến đây cũng không thoát khỏi tay ta, đừng có chạy. Ta phải ăn thịt ngươi! Sửa soạn đi thôi.
      Anh nông dân sợ rung cả người nhưng cố trấn tỉnh đáp lại:
      - Tôi đã nghe nói đến ngày rất nhiều. Vậy ra ngài là thần Núi? Rừng rậm thế này tôi cũng chẳng thoát được với ngài. Tôi đã sẵn sàng, ngài muốn làm gì tùy ý. Nhưng ngài có thể rộng lượng cho tôi được nói một điều không?
      - Nào, còn muốn nói gì nữa? Nói cho tường tận, Thần Núi hét to.
      Anh nông dân liền nói:
      - Người ta đồn rằng thần Núi có thể biến thành cái gì cũng được. Tôi chỉ khao khát rằng trước khi bị ngài ăn thịt, tôi được thấy tận mắt cái tài của ngài coi nó thế nào.
      Thần núi cười sằng sặc:
      Cái đó có hề chi. Nói đi, anh muốn ta biến thành thứ gì nào?
      - Xin ngài biến thành cây đại thụ. Bằng cây nào cao nhất xung quanh đây mới giỏi.
      - Anh nói.
      Trong nháy mắt, thần Núi đã biến thành một cây đại thụ ngọn cao nhất, tưởng chạm đến cả trời.
      Anh nông dân đưa tay vuốt thân cây mà khen lấy khen để:
      - Đúng là thần Núi rồi! Mình không ngờ rằng cây đại thụ lại cao lớn như thế.
      - Anh đã thấy phép lạ của ta chưa? Đủ rồi chứ?
      - Thần Núi đắc chí hỏi anh.
      Nhưng anh nông dân lại xin thêm một điều nữa:
      - Tôi muốn xem ngài biến thành tảng đá nữa...
      Tức thì thần Núi không còn cây đại thụ mà đã hóa thành một ngọn núi cao sừng sững trước mặt anh. Lần này anh lại khen lấy khen để thần Núi, rồi cuối cùng anh nói:
      - Thế là ngài đã biến được thành hai thứ to lớn nhất mà tôi vẫn ao ước được thấy. Vậy ngài có thể biến thành một thứ gì nhỏ tí tỉ tì ti không ạ? Ngài trổ tài lần nữa xem, ngài thử biến thành một hạt đậu trên bàn tay tôi đi nào...nào...
      - Hừm... thế thôi à?


      - Thần Núi cả cười, nhăn cả cái mũi dài thườn thượt.
      Thần núi biến ngay thành một hạt đậu nhỏ tẹo trên lòng bàn tay anh nông dân.
      Anh bỏ luôn hạt đậu vào mồm, nhai nhai và nuốt chửng.
      Từ đó người ta quen miệng chế giễu những chàng có tính khoe khoang là "Thần Núi".

@J?              @J?                     @J?
                                     Con Rùa Vàng
    Xưa kia có hai người bạn chơi với nhau rất thân, hiềm vì một người thì giàu, còn một người nghèo. Người bạn giàu có cái tên là Đại Phú, còn người nghèo tên là Chí Quân.
      Vợ chồng Đại Phú thấy bạn nghèo thì có ý muốn giúp đỡ vốn liếng để làm ăn. Chí Quân lòng dạ ngay thẳng ngại rằng lấy tiền của bạn đem về, rủi làm ăn thất bát thì lấy đâu mà trả cho bạn. Vì vậy nên từ chối việc giúp đỡ của bạn.
      Nhà Đại Phú chẳng thiếu gì của qúi, nhưng lại muốn có thêm của lạ nên hôm nọ lấy năm nén vàng đưa cho một người thợ bạc đặt làm con rùa vàng. Ngày kia, Chí Quân đến thăm bạn, Đại Phú liền đem con rùa vàng ra khoe. Chí Quân xem rồi để trong một cái đĩa, đoạn cùng bạn uống rượu đến say khướt nằm ngủ quên.

      Lúc bấy giờ, con trai của Đại Phú đi học ở xa về, thấy con rùa vàng lấy đem đi chơi. Đến chừng Chí Quân ra về được một lát, Đại Phú mới sực nớ tới con rùa vàng, hỏi vợ thì vợ nói không có lấy cất. Đại Phú lấy làm bối rối, chẳng lẽ nghi cho người bạn tốt của mình ăn cắp con rùa vàng?
      Ngày sau, Đại Phú đến nhà Chí Quân chơi, nhân tiếc con rùa vàng có hỏi mát bạn rằng:
      - Này anh, hôm trước anh có lấy con rùa vàng của tôi đem về để cho chị coi không?
      Nghe vậy Chí Quân nghĩ thầm rằng: Có lẽ bạn ta nghi ta ăn cắp con rùa vàng chăng? Nhưng chẳng lẽ bảo là không lấy thì chi cho khỏi phật lòng bạn mình, nên đành nhận là có lấy.
      Đại Phú mới bảo ban:
      - Thôi được, anh cứ giữ con rùa vàng mà chơi. Tôi xin biếu anh.
      Đại Phú về rồi, vợ chồng Chí Quân lấy làm lo lắng, làm sao có con rùa vàng để trả cho bạn. Vợ chồng bàn nhau bán nhà bán cửa cho ông Phú và xin làm người hầu hạ để có đủ tiền làm con rùa vàng trả cho bạn.
      Ông Phú biết chuyện lấy làm động tâm, mới gọi người thợ bạc đến làm một con rùa vàng khác, trao cho vợ chồng Chí Quân đem về trả bạn và cũng không nhận vợ chồng Chí Quân làm người hầu hạ, mà chỉ cho ở nhờ.
      Được ít lâu, người con trai của Đại Phú trở về nhà có đem theo con rùa vàng đã lấy độ trước, trả cho cha mẹ và nói:
      - Hôm nọ, con về nhà thình lình thấy con rùa vàng để trong đĩa nên con lấy cất đây, nếu gặp phải kẻ gian thì mất luôn rồi. Vậy con xin trả lại.
      Thấy vậy, vợ chồng Đại Phú vô cùng ngạc nhiên. Rùa vàng con mình lấy đem đi chơi, rùa vàng nào bạn đem trả? Mới nghĩ ra, có lẽ người bạn nghèo sợ mình phiền trách nên làm con rùa khác để thế.
      Bấy giờ Đại Phú mới đem con rùa vàng đến nhà Chí Quân để trả lại và xin lỗi bạn. Nhưng nhà đã bán rồi, vợ chồng bạn lại ở nhờ trong nhà ông Phú. Lập tức Đại Phú đến gặp ông Phú trao trả con rùa và xin đưa vợ chồng bạn về. Ông Phú từ chối như vầy:
      - Anh có mượn rùa của tôi đâu mà trả? Còn vợ chồng Chí Quân tôi có bắt buộc gì đâu mà lãnh về? Còn Chí Quân nhận mình mắc nợ ông Phú nên không chịu về.
      Câu chuyện trở thành rắc rối, cả ba mới đưa nhau đến cửa công để nhờ phân xử.
      Lẽ tự nhiên quan trên không biết xử làm sao đối với ba người ngay thật và tốt bụng.
             @J?                     @J?
                                      Ăn Trầu Ngắt Đuôi
     Thuở ấy, ở xóm kia có chàng thanh niên và cô thiếu nữ rất xứng đôi vừa lứa. Cha mẹ của đôi bên đều bằng lòng kết tình thông gia nhưng chưa nói cho con mình biết.
      Vì quá yêu nhau, hằng đêm cô thiếu nữ lén mở cửa phòng rước cậu trai vào tình tự. mãi đến gà gáy hừng đông, cậu trai mới ra về. Cứ như vậy ngày này qua tháng kia.
      Buổi nọ, trước khi về, cậu trai ao ước được ăn một miếng trầu. Nhìn trong khay thấy hết trầu, cô thiếu nữ liền chạy ra vườn hái lá đem vô, têm vôi, mời chàng. Dè đâu miếng trầu nhai chưa dập chàng nọ ngã lăn, trào đờm rồi chết. Hoảng hốt nàng tri hô lên. Quan chạy lại khám xét tử thi, thấy nhiều đốm đỏ loang khắp mình.
      Thế là cô nọ bị bắt giam để xét hỏi vì tội bỏ thuốc độc giết người. Cô cứ một mực kêu oan. Cuộc tra tấn kéo dài, lần lần cô trở nên ốm o gầy mòn, gần chết trong ngục.
      May sao, có ông quan Án đi qua. Quan Án hỏi cô:
      - Đầu đuôi tự sự như thế nào? Mi phải khai rõ.
      Cô nọ nói sự thật. Nghe xong, vị quan suy nghĩ, gật đầu. Ông đi ra ngoài vườn xem từng lá trầu trên nọc. Ông chú ý: mấy lá ở sát gốc đều dính một chất gì nhớt ngay chót đuôi lá, giống như là con ốc, con sên bò qua nhả nước miếng.
      Nhưng không thấy con ốc, con sên nào cả!
      Ông quá tức trí, ra lệnh đào dưới đất, ngay nọc trầu đào thật sâu, bỗng nghe tiếng khò khè. Rõ ràng là con thuồng luồng nằm khoanh trong hang. Dân chúng chạy tứ tán.
      Ông quan nói:
      - Con thuồng luồng này hàng đêm lén bò lên mặt đất để kiếm nước uống. Vì quá khát nước, nó phải liếm mấy giọt sương đọng ở chót đuôi mấy látrầu gần mặt đất. Nọc con thuồng luồng dính lại trên lá nên giết người. Cô gái này bị hàm oan.
      Chòm xóm nhìn nhận lời vị quan nọ là chí lý, tài trí như Bao Công thuở trước. Từ đó về sau, trước khi têm trầu, ai nấy đều ngắt chót đuôi lá vì sợ nọc con thuồng luồng. Bây giờ, giống thuồng luồng không còn nữa nhưng thói quen của con người hãy còn...
@J?                                   @J?
                                   Hai Con Vật Có Nghĩa
     Ngày xưa có hai mẹ con anh chàng nghèo rớt mùng tơi. Anh lang thang đi kiếm việc làm nhưng chả có ai thuê cả. Mãi sau, có một chủ thuyền buôn khỏe mạnh, lại biết bơi lội nên mới thuê làm thủy thủ. Hắn hứa cho anh cơm một ngày ba bữa và một năm bốn mươi quan tiền trả trước. Anh chàng tưởng không có mừng nào hơn thế nữa, vội cầm ba mươi quan về cho mẹ tiêu, còn mười quan thì mang theo định để dành may mặc.
      Thuyền cất hàng, vượt biển luôn năm ngày đến một thị trấn. Trên bến kẻ bán người mua chen chúc như hội. Bọn thủy thủ bảo chàng:
      - Ở đây thứ gì cũng buôn được. Cứ mua một ít đưa về quê nhà bán thì tự khắc có lãi.
      Anh chàng xưa nay không quen mua bán nên cầm mười quan tiền trong tay, chưa biết mua thứ hàng gì. Bỗng chốc anh thấy có một người mang ra bến một con chó bị trói toan vứt xuống sông. Lấy làm thương, anh vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Người ấy cho biết chó này là của chủ mình. Hôm nay chủ đi chợ mua thịt về dọn tiệc, không rõ cất đặt thế nào để chó ăn vụng mất cả. Chủ tức giận trói chó đánh một trận thừa sống thiếu chết rồi sai đi buông sông. Nghe kể thế anh chàng xin mua lại chó. Người kia cười mà rằng:
      - Nó chỉ chuyên môn ăn vụng, anh mua về làm gì?
      Chàng đáp:
      - Thây kệ, cứ bán cho tôi đi!
      Cuối cùng anh chàng xỉa ra ba quan tiền mua lấy con chó, cởi trói cho nó, đoạn xích lại bên chỗ mình làm việc.
      Sau đó một chốc, anh lại trông thấy một người đàn bàmang một con mèo toan vứt xuống sông. Anh chàng ngăn lại và hỏi duyên cớ. Khi biết tội trạng của mèo cũng chỉ là ăn vụng, anh nài để con vật cho mình. Thấy người đàn bà khuyên không nên mua thứ mèo xấu nết, anh không nghe và nói:
      - Thây kệ! Chị cứ bán cho tôi đi!
      Thế là cuối cùng mèo cũng thoát chết. Và người chủ mới của nó sau khi xỉa ra ba quan tiền để mua, đem buộc lại gần bên con chó.
      Ngồi một mình trên thuyền, thấy buồn anh chàng bèn bỏ thuyền lên bộ đi dạo bờ sông. Bỗng chốc anh thấy có ba đứa trẻ chăn trâu bắt được một con rắn nước, toan dùng roi sử tội. Anh chàng vội chạy lại ngăn cản:
      - Các em đừng đánh nó, nó là rắn nước, có làm hại ai đâu?
      - Mặc kệ chúng tôi
      - Bọn trẻ đáp. Chúng tôi bắt được nó, chúng tôi đánh, ông cản làm gì?
      Thấy bọn chúng khăng khăng cố tình giết rắn, anh chàng lại dùng đến tiền để cứu con vật vô tội. Chúng đòi năm quan. Mãi sau anh mới bớt được một. Thế là số tiền mang theo lần lượt vơi đến hết. Mua được con rắn anh vội thảxuống sông cho nó trở về xứ sở. Bọn thủy thủ sau khi nghe anh kể lại những việc mua bán của mình, thì đều cười ngất, cho là một người khờ dại ít có. Anh chỉ ngồi lặng yên, không nói gì cả.
      Khi thuyền bắt đầu trở về, vào khoảng nữa đêm, anh đang chèo bỗng thấy con rắn nước từ dưới sông bơi lên trao cho mình một viên ngọc mà nói:
      - Cha tôi là Long Vương cảm ơn anh cứu mạng tôi, cho tôi đem biếu anh một viên ngọc "băng xuyên" để mời anh xuống chơi. Mang ngọc vào mình anh có thể đi được dưới nước cũng dễ dàng như đi trên bộ.
     Anh chàng nghe nói vội buông chèo đi theo con rắn nước xuống Thủy Phủ. Qủa nhiên, anh được Long Vương tiếp đãi rất hậu, tống tiễn ngọc vàng châu báu rất nhiều. Sau đó, anh được người của Long Vương đưa về đến tận nhà.
      Chủ thuyền thấy mất hút anh, tưởng anh đã rơi xuống nước. Bèn đỗ thuyền lại, lên lộ trình với xã sở tại. Nhưng khi mọi người về đến quê hương thì họ rất lấy làm ngạc nhiên vì anh thủy thủ trẻ tuổi đã về đến nhà ba ngày trước rồi.
      Từ đó, anh trở nên giàu có. Nhưng anh vẫn sống một cuộc đời bình thường với người mẹ già. Con chó, con mèo được anh cứu vẫn theo anh không rời. Về sau, anh lấy vợ. Vợ anh là một cô gái rất đẹp. Nàng rất thích đeo nữ trang. Thấy viên ngọc "băng xuyên" chiếu sáng một góc tủ, nàng thích lắm, nên một hôm ra tiệm kim hoàn, bảo đánh cho mình một chiếc nhẫn. Không ngờ, người thợ kim hoàn biết là ngọc quí ít có trong thế gian, bèn đi kiếm một viên khác tương tự như thế đánh tráo mà cướp lấy món bảo vật.
      Khi biết rõ chuyện mất cắp thì anh chàng thủy thủ trở nên buồn bã. Hằng ngày, anh ra bờ sông, mong tìm lại con rắn nước nhưng chả làm sao gặp được. Chó và mèo thấy chủ không vui, một hôm nói với chủ xin đi tìm viên ngọc.
      Đường đến nhà thợ kim hoàn phải qua một con sông rộng. Không có cách gì để vượt cả, hai con vật cứ loanh quanh ở trên bờ. Về sau chúng nó tìm được vào nhà một con rái cá. Chúng kể sự tình cho rái cá nghe và nhờ nó đưa giúp qua sông. Rái cá vui lòng gọi các bạn bè của nó đứng sát vào nhau, kết thành một cái bè cho chó và mèo ngồi trên lưng, chở qua sông yên lành.
      Khi đến nhà người thợ kim hoàn, mèo bảo chó:
      - Để tao trèo lên nóc nhà kêu lên mấy tiếng cho những con chó trong nhà xúm lại sủa. Thế là mày cứ đường hoàng theo cổng mà vào, không ai biết.
      Qủa nhiên, bầy chó của nhà người thợ kim hoàn nghe mấy tiếng mèo kêu vội vàng xông ra đuổi. Mèo dẫn chúng đi thật xa nên chó ta lẻn vào nấp dưới một cái hầm, vô sự.
      Khi hai con vật gặp lại nhau, chúng tìm tòi khắp trong nhà. Tất cả của cải của lão kim hoàn đều bỏ trong một cái rương xe, luôn luôn khóa kín, không dễ gì lọt vào được. Mèo bèn cố sức tìm tòi, chụp bắt được một con chuột. Chuột van lạy xin tha mạng. Mèo bảo nó dẫn mình đi gặp chuột chúa đàn. Mèo nói rõ chuột chúa biết việc mình lấy cho được viên ngọc; đổi lại, mèo hứa sẽ không chạm đến tôn tộc nhà hắn. Chuột chúa đàn vâng dạ rối rít:
      - Để tôi bảo lũ con cháu, tôi tớ trong nhàkhoét chiếc rương của nó ra, tìm cho các ông.
      Nhưng đến khi lọt được vào rương, lũ chuột tìm mãi vẫn không thấy ngọc. Chuột chúa đàn ra báo lại cho mèo biết, và nói:
      - Trong rương này có một cái hộp bằng bạc. Có lẽ nó giấu trong đó; cái hộp đó thì khó lòng mà gặm được.
      - Vậy làm thế nào bây giờ? - mèo hỏi.
      - Chỉ có cách là chúng tôi sẽ nhờ xóm giềng hợp sức cùng chúng tôi khoét rộng lỗ thủng làm sao đưa lọt cái hộp ra đây cho các ông tìm.
      - Thế thì làm gấp đi!
      Chỉ trong một đêm, cả xóm nhà chuột đã lấy được cái hộp đưa cho mèo. Hai con vật tìm cách phá hộp ra, quả thấy viên ngọc của chủ. Chúng vô cùng mừng rỡ.
      Sau khi ra khỏi nhà người thợ kim hoàn, chó tranh mèo mang ngọc. Nhưng đến lúc sắp sửa sang sông, vì mắng nhau với một con chó khác, nên chó đã để ngọc văng xuống nước. Một con cá trông thấy ngọc sáng vội bơi tới đớp và nuốt ngay.
      Thấy chó để mất ngọc, mèo giận quá, mắng chó một trận thậm tệ. Chó biết lỗi, lặng thing, cuối cùng mếu máo:
- Biết làm sao bây giờ?
      Suy nghĩ một lát, mèo tìm được một kế bảo chó:
      - Chúng ta sẽ tìm đến một nhà thuyền chài ở vùng này xin ở với họ. Thế rồi chờ khi họ câu được con cá đã nuốt viên ngọc thì sẽ tìm cách cướp lấy đem về.
      Chó khen mưu kế hay, bèn cùng mèo tìm đến một gia đình ông chài đang đỗ thuyền lại ở bờ sông phơi lưới. Hai con vật tỏ ra rất khôn ngoan, hiền lành nên được cả nhà đối đãi tử tế.
      Mấy hôm sau, ông chài đánh mẻ lưới được một con cá chày rất lớn, mổ ruột ra, thấy có viên ngọc. Chó và mèo khấp khởi mừng thầm. Trong khi cả nhà đang trao ngọc cho nhau để xem của lạ, thì mèo tiến lại cọ vào người chủ. Nhân khi chủ sơ ý, nó nhảy lên ngoạm lấy viên ngọc và nhanh chóng cong đuôi nhảy lên bờ chạy mất. Thấy thế, chó cũng ba chân bốn cẳng chạy theo trước con mắt ngơ ngác của mấy bố con ông chài.
      Lần này mèo tranh chó mang ngọc. Mèo lên mặt khôn bảo chó:
      - Lần trước ngậm bị rơi mất, lần này có cách rất hay là đội lên đầu. Sắp đến nhà, chả sợ gì nữa.
      Nó nói thế thì làm như thế.
      Nào ngờ mới đi được một quãng đường, bấy giờ có một con quạ đang bay trên không trung, nhác thấy có cái gì lấp lánh trên đầu con mèo, thì thình lình sà xuống đớp lấy rồi bay lên đậu ở một cành cây cao. Thấy ngọc lại mất, chó đến lượt chửi mắng mèo rất dữ, rồi nói:
      - Ngọc rơi xuống nước còn có thể lấy được, chứ bay lên trời thì đừng có hòng.
      Mèo buồn rầu, nhưng ngẫm nghĩ một lát, nó lại bảo chó:
      - Đúng rồi. Tao đã nghĩ ra được một kế.
      Chó hỏi:
      - Kế gì?
      Mèo đáp:
      - Giả chết bắt quạ.
      Nói xong, mèo chạy xuống bờ sông uống một bụng nước đầy căng. Đoạn trở về xua chó trốn đi một chỗ, còn một mình thì tới nằm dưới gốc cây phơi bụng trắng hếu giả vờ chết.
      Qụa đang ngậm ngọc, đậu trên cây cao nhìn thấy thoáng có bóng con vật chết vội vàng bay xuống toan rỉa thịt. Nhưng khi quạ vừa bay sáp lại thì mèo đã nhảy xổ lên vồ lấy quạ. Qụa van lạy xin trả lại viên ngọc cho mèo để được tha mạng. Mèo chỉ đợi có thế ngoạm lấy viên ngọc, ra đi.
      Lần này, cả hai con đưa ngọc về đến nhà vẹn toàn. Anh chàng thủy thủ lấy lại được món tặng vật của Long Vương, hết sức vui mừng. Anh càng thêm quí mến con vật có tình có nghĩa.
›&š
                                                 Anh Hai Vợ
     Một anh chàng hai vợ, tối đến phải ngủ chung với vợ lớn ở nhà trong, còn vợ bé thì nằm ở nhà ngoài.
      Một đêm, trời đã về khuya, cô vợ bé hát:
     Đêm khuya, gió lặng sóng yên,
      Lái kia có muốn, ghé thuyền sang chơi.
      Anh chồng muốn ra với vợ bé, nhưng bị vợ cả ôm giữ, mới đáp rằng:
     Muốn sang bến ấy cho vui,
      Mắc đồn bến gác khó xuôi được dòng.
      Nghe thấy vậy, chị vợ cả liền hát:
     Sông kia ai cấm mà lo,
      Muốn xuôi thì nộp thuế đo rồi xuôi.
      Cô vợ bé đáp:
      Chẳng buôn chẳng bán thì thôi,
      Qua đồn hết vốn, còn xuôi nỗi gì.
      Chẳng hiểu sau đó anh chồng có "xuôi" được không?

šJ¸J›
                          Chàng Khờ
     Chàng Khờ đi mua một con bò. Mấy lâu mong ước, nay mới tậu được con bò, Khờ thích lắm, chăn dắt cả ngày. Bò chóng béo. Sợ kẻ trộm vào dắt mất, đêm đêm bò đã cột vào ràn (chuồng) rồi, Khờ còn cẩn thận vác chõng đặt chặn cửa, nằm canh.
      Nhưng Khờ vẫn để mất bò. Một đêm, Khờ ngủ say, kẻ trộm vào. Chúng khiêng chõng đặt nơi khác rồi bắt mất bò. Để trêu Khờ, chúng còn cạo trọc đầu Khờ.
      Sáng dậy mất bò, Khờ hoảng quá. Khờ tru tréo rồi chạy lung tung tìm bò. Khi đã mệt, soi gương, Khờ lại bảo: "A! Thằng trọc mất bò chứ không phải là tao".
                              Cây Tre Trăm Đốt
     Ngày xưa có một chàng trai cày hiền khỏe mạnh đi ở cho một lão già giàu. Anh rất chăm chỉ lại thạo việc đồng áng nên lão nhà giàu muốn anh làm lợi thật nhiều cho lão. Một hôm, lão gọi anh đến vàngon ngọt dỗ dành:
      - Con chịu khó làm lụng thức khuya dậy sớm giúp ta, chớ quản nhọc nhằn, ba năm nữa ta sẽ gã con gái cho.
      Anh trai cày tưởng lão nói thật, cứ thế quần quật làm giàu cho lão. Ba năm sau, nhờ công sức anh, lão chủ có thêm nhà ngói, sân gạch, tậu thêm được ruộng được vườn. Nhưng lão nhà giàu chẳng giữ lời hứa năm xưa. Lão đã ngấm ngầm nhận lời gả con gái cho con trai một nhà giàu khác trong vùng. Một hôm, lão làm ra vẻ thân mật bảo anh trai cày:
      - Con thật có công với gia đình ta. Con đã chịu khó ba năm trồng cây sắp đến ngày ăn quả. Cơ ngơi nhà ta chỉ còn thiếu cây tre trăm đốt, con gắng lên rừng tìm cho được đem về, ta sẽ gả con gái cho.
      Anh trai cày mừng rỡ xách dao lên rừng. Anh không biết ở nhà hai lão nhà giàu đã sắp sẵn cỗ bàn để làm lễ cưới cho con trai, con gái chúng. Hai lão hí hững bảo nhau: "Cái thằng ngốc ấy có đi quanh năm, suốt tháng cũng đố mà tìm được cây tre dài đủ trăm đốt! Thế nào rồi cũng bị rắn cắn, hổ vồ!".
      Về phần anh trai cày, anh hì hục trèo đèo lội suối luồn hết bờ này bụi khác tìm kiếm mà chỉ tìm thấy những cây tre thấp bé bình thường, cây cao nhất cũng chưa được năm chục đốt. Anh buồn quá ngồi bưng mặt khóc.
      Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên, hỏi:
      - Làm sao con khóc?
      Anh trai cày thưa rõ đầu đuôi câu chuyện. Bụt cười và bảo:
      - Khó gì việc ấy! Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre. Đem xếp nối với nhau rồi hô: "Khắc nhập, khắc nhập" thì có ngay cây tre trăm đốt.
      Nói xong, Bụt biến mất. Anh trai cày làm đúng lời Bụt bảo, quả nhiên cả trăm đốt tre dính liền nối nhau thành một cây tre dài đủ trăm đốt. Anh sung sướng nâng lên vai vác về. Nhưng cây tre dài quá, vướng bờ, vướng bụi, không sao đưa ra khỏi rừng được. Anh lại ngồi xuống khóc. Bụt lại hiện lên hỏi:
      - Cây tre trăm đốt có, sao con còn khóc?
      Anh nói tre dài quá không vác về nhà được. Bụt liền bảo:
      - Con hãy hô: "Khắc nhập, khắc nhập", những đốt tre ấy sẽ rời ra!
      Anh làm theo lời Bụt, tự nhiên cây tre rời ra trăm đốt, anh kiếm dây rừng buộc làm hai bó, mừng rỡ gánh về.
      Lúc về tới nơi, thấy hai họ đang ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới biết rõ là lão nhà giàu đã lừa anh và đã lén lút đem con gái gả cho người khác. Anh giận lắm nhưng không nói năng gì, lẵng lặng xếp một trăm đốt tre nối nhau và hô: "Khắc nhập, khắc nhập". Một cây tre đúng một trăm đốt tươi xanh óng ảhiện ra trước mặt mọi người. Lão chủ thấy lạ, chạy lại gần xem, anh đọc luôn: "Khắc nhập, khắc nhập". Lão ta dính liền ngay vào cây tre, không tài nào rứt ra được. Lão thông gia thấy vậy, chạy lại tính gỡ cho nhà chủ. Anh đợi cho hắn tới gần, rồi lại đọc: "Khắc nhập, khắc nhập".
      Thế là lão ta cũng dính chặt luôn vào cây tre. Hai lão nhà giàu kêu khóc thảm thiết, van lạy anh trai cày xin anh gỡ ra cho và hứa trước hai họ sẽ gả con gái cho anh ngay hôm đó. Lúc bấy giờ anh mới khoan thai đọc: "Khắc xuất, khắc xuất".Tức thì cả hai lão kia rời khỏi cây tre và cây tre cũng chia thành trăm đốt. Anh trai cày làm lễ cưới cô gái và hai vợ chồng sống hạnh phúc với nhau suốt đời.
                                        Thần Giữ Của
     Ngày Xưa có hai anh em nhà kia rất nghèo nàn. Cả hai anh em chỉ chuyên nghề bán rau đốn củi đổi gạo sống qua ngày.
      Tuy nghèo, hai anh em vẫn nhân từ phúc hậu thường hay bố thí chén cơm, chén gạo cho kẻ già yếu tật nguyền. Trong nhà có nuôi con chó cái lúc nọ đẻ ra con chó trắng chỉ có ba chân. Làng xóm cho là quái vật hiện lên khuyấy phá bảo giết đi, anh em chẳng những không giết mà còn nuôi dưỡng con chó đến ngày khôn lớn.
      Một hôm hai anh em đang ngồi ăn cơm, chợt thấy một ông lão ăn mày chống gậy vào cửa xin cơm. Cả hai đều nhường cơm cho lão ăn mày ăn no. Ăn xong ông lão ăn mày nói:
      - Tiếng đồn quả thật không sai, hai anh em một nhà đều là người nhân đức, đáng được thưởng. Ta nay không phải là kẻ ăn mày nghèo khó mà là Thần giữ kho vàng Sơn Tây, lúc nãy muốn thử lòng các ngươi, nay ta đã biết rồi. Ta muốn ban cho các ngươi kho vàng.
      Ông lão ăn mày tức thần giữ của kho vàng tiếp rằng:
      -Ngày xưa có một vị quan Tàu tên là Mã Kỳ, có chôn giấu tại một khu vườn thuộc huyên Lập Thạch tỉnh Sơn Tây một kho vàng và phong ta làm Thần giữ của, hẹn đúng một trăm năm thì có người trở lại lấy. Ta trong đợi mãi, hơn một trăm năm rồi chẳng thấy người của Mãû Kỳ trở lại, nhân thấy các ngươi nghèo khổ mà có lòng nhân đức nên ta định đem kho tàng tặng cho các ngươi. Nhưng các ngươi phải đợi đủ một trăm ngày à phải có một con chó trắng (tức chó cò) ba chân đem trước của kho tàng tức là tòa miếu cổ ở khu vườn, bắt nó sủa lên ba tiếng, tự nhiên cửa kho tàng bên cái kệ đámở ra. Thôi các ngươi hãy cố nhớ lời, ta xin kiếu.
      Nói rồi, Thần giữ của biến đi. Hai anh em đợi đúng một trăm ngày, dắt con chó cò đến miếu hoang, tới bên cái bệ đá, bắt chó sủa lên ba tiếng, tức thì cánh cửa đặt ngầm trong cái bệ đá mở toang, nhìn vào trong thì thấy một dãy chum vại nằm kề liền nhau. Hai anh em bước vào mở nắp chum vại ra xem thấy toàn vàng và bạc. Đem về đếm được một nghìn cân vàng và ba vạn cân bạc.
      Từ đó, hai anh em trở nên giàu có lớn. Gặp lúc Mạc Đăng Dung chiếm đoạt ngôi nhà Lê, hai anh em nhờ người cận thần tiến dẫn đem biếu Mạc Đăng Dung một trăm cân vàng, một trăm cân bạc. Vua Mạc cho thâu nhận rồi phong cho hai anh em tước Quận công.
      Cách ba năm sau, có năm, sáu người Tàu dắt một con chó trắng đến ngay tòa miếu chôn của mở cửa kho vàng, họ chỉ thấy kho vàng trống trơn. Họ kêu khóc thảm thiết. Hai anh em Quận công sai người gọi họ đến thì họ đáp rằng:
      - Chúng tôi là con cháu của Mã Kỳ ở bên Trung Quốc, trăm năm trước tổ phụ của chúng tôi có để tại Sơn Tây một kho tàng châu báu, hiện còn gia phả để lại đàng hoàng, nhưng chúng tôi đến đây rồi, thì kho tàng không biết ai đã lấy mất rồi, vì vậy chúng tôi buồn khổ mà khóc.
      Hai anh em Quận công nói rằng:
      - Nhờ thần nhân chỉ bảo, nên anh em chúng ta lấy được kho vàng.
      Mấy người Tàu liền hỏi:
      - Làm sao các ngươi lấy được kho vàng, vì muốn mở cửa kho vàng phải có con chó cò ba chân mới mở được.
      Anh em Quận công bảo rằng:
      - Nhà chúng ta có sẵn.
      Rồi anh em thuật cho họ nghe, chuyện con chó cái nhà mình đẻ ra con chó trắng mà mọi người cho là quái vật, cho họ nghe.
      Họ nói:
      -Thế thì trời đã giành cho các ngài, chớ giống chó có ba chân chỉ có quận Sầm Châu tỉnh Quảng Đông bên Tàu mới có mà thôi. Bây giờ của các ngài đã lấy rồi, chúng tôi còn giữ lấy con chó làm gì nữa, vậy xin tặng luôn các ngài đó.
      Hai anh em Quận công thương tình, cho họ ba chục cân vàng và một trăm cân bạc để làm lộ phí trở về Tàu.
                             
  Ác Lai, Ác Báo
     Ngày xưa có một anh thợ câu nọ có tính tàn ác, thường bỏ thuốc độc xuống các khe suối để cá chất nổi lên.
      Hôm nọ, tình cờ anh ta gặp một con lươn bạch tại khe suối.
      Dân trong làng bảo:
     - Không nên, con lươn bạch này tu lâu năm rồi...
      Vì bản chất độc ác, anh ta đem thuốc ra, toan bỏ xuống nước.
      Có ông thầy chùa chạy đến nài nỉ:
      - Nếu vậy cậu giết tôi còn hay hơn.
      Anh nọ nói:
      - Nếu ông có đói thì tôi cho ông ăn chứ tôi cương quyết giết con lươn này...
      Anh ta mời thầy chúa về nhà, đãi bữa cơm chay. Mãn buổi cơm, anh ta ra suối bỏ thuốc độc. Thuốc pha vào nước suối đỏ ngầu. Trong nháy mắt, con lươn nọ trồi lên lờ đờ như điên dại. Lạ thay trong bụng con lươn có mấy món đồ chay đã đãi ông thầy chùa khi nãy.
      Dân làng xôn xao bàn tán, cho rằng ông thầy chùa chính là con lươn trá hình.
      Từ đó anh thợ câu lấy làm e ngại. Vợ anh có thai. Lớn lên, đứa con đau ốm liên miên, báo hại anh thợ câu phải tan gia bại sản mà chạy thuốc cho nó.
                        
Ba Chàng Rể
     Hai vợ chồng nhà nọ khá giàu có cũng chỉ sinh được một cô con gái. Cô này có nhan sắc. Có ba chàng trai ngấp nghé làm rể: Một tú tài, một khóa sinh và một nông dân. Chẳng may phú ông qua đời, bà vợ bảo: "Ai làm bài văn tế ông nghe mà cảm động thảm thiết sẽ gả con gái cho".
      Tưởng văn chương là nghề múa tay trong bị, chàng tú tài làm một bài văn chữ Hán đối nhau chan chát và đầy điển tích, nhưng mới bắt đầu đọc chữ "duy" đã bị anh chàng nông dân đứng lên cãi: "Duy là giữ lại. Bố chết được chôn cất là hay, tại sao lại bảo giữ lại". Không ngờ bị một anh vô học phá ngang, chàng tú tài bèn bỏ ra về. Đến chàng thứ hai nhờ người gàbài văn tế mở đầu cũng có chữ "duy". Thấy đọc "duy" bị bắt bẻ, anh bèn đọc "di" nhưng lại bị anh nông dân bác: "di" là dời, bố chết chưa được mồ yên mả ấm lại bảo dời đi đâu?". Thẹn quá, anh chàng cũng bỏ luôn. Đến lượt anh nông dân, chẳng tài văn chương giấy má gì cả, đến trước quan tài, quỳ xuống vừa khóc vừa khấn nôm:
     Ô hô! Ô hô! Ô hô!
      Nhớ ông xưa:
      Mình tròn trùng trục, râu dài lê thê
      Ăn rồi: phát bờ, dọn khe, đan mủng đan sề
      Ru con ẵm cháu, trồng cà dái dê.
      Ông bỏ đi mô (đâu)? Ông lại chẳng về.
      Nói đến đó, bà vợ người quá cố xúc động quá, khóc sướt mướt. Thế là anh chàng nông dân được làm rể.
                             Ba Con Quỷ
     Ngày xưa, ở một vùng nọ có hai vợ chồng một nhà phú hộ tuổi đã già mới sinh được mụn con gái, nên hết sức chiều chuộng. Cô gái lớn lên hình dung đẹp đẽ ít ai bì kịp, bố mẹ lại càng nâng niu như vàng như ngọc. Họ bỏ tiền ra xây một ngôi lầu cho con ở. Lầu dựng xong, phú hộ lại cho người đi tìm hoa thơm cỏ lạ, trồng trong vườn để con thưởng ngoạn.
      Bấy giờ trong đám rừng sâu gần đấy, có ba con cáo sống lâu năm thành quỷ, có phép biến hóa, thường quen thói hại người. Nghe tin có cô gái đẹp cấm cung mà bố mẹ thì đang bỏ tiền ra mua các cây hoa để trồng ở vườn, chúng rắp tâm phá phách, bèn hóa thành một thứ cây có hoa rất lạ. Hoa có ba cánh: Một cánh màu xanh, một cánh màu trắng, một cánh màu đỏ. Một người tiều phu lên rừng hái củi, thấy hoa đẹp chưa từng có, liền bứng lấy đưa về bán cho phú hộ. Thấy cây họ đặc biệt, phú hộ mua ngay rồi đem trồng ở vườn. Tuy hoa rất lạ và trông thật đẹp mắt nhưng cô gái lại tỏ vẻ không thích, vì thế mưu kế của lũ quỷ không thành. Lâu ngày hoa tàn cây héo lũ quỷ sắp sửa bỏ đi nơi khác. Giữa lúc ấy, người phú hộ chặt cây thấy thớ gỗ đẹp, bèn chọn lấy một khúc đẽo thành cái then cửa đem về chốt ở cửa buồng của con gái.
      Thế rồi sau đó mấy hôm, một đêm kia trong khi cô gái đang ngủ, thì một con quỷ từ chiếc then cửa bỗng hiện ra, lên giường toan sinh sự với cô. Nhưng cô đã vùng dậy, hết sức chống cự và kêu la inh ỏi. Biết không xong con quỷ liền hớp lấy hồn nàng rồi lại biến vào then cửa. Khi vợ chồng phú hộ và người nhà chạy vào buồng thì thấy cô gái nằm thiêm thiếp trên giường như người đã chết, ngực thoi thóp đập, nhưng lay gọi mãi vẫn không tỉnh. Chưa kịp tìm thầy cứu chữa, thì tối hôm sau, trong khi người cha một mình chăm sóc cho con, con quỷ thứ hai lại hiện ra hớp lấy hồn ông. Tối hôm sau nữa, lại đến lượt một người nhà bị con quỷ thứ ba hớp hồn. Vợ phú ông sợ quá, vội cho người mời thầy phù thủy đến bắt quyết trừ tà. Thầy làm phép trong ba ngày ba đêm thì phú ông và người hầu tỉnh lại. Duy chỉ có cô con gái thì quỷ đầu đàn vẫn không chịu buông tha. Thầy tuy đã cao tay nhưng quỷ vẫn chẳng coi ra mùi gì.
      Cuối cùng thầy đành xách gói cáo từ, vì phép thuật đã giở ra hết mà cô gái vẫn ngày đêm nằm trên giường, nửa mê nửa tỉnh. Từ đấy, người ta tin rằng ngôi lầu có quỷ nên khong một ai dám lui tới.
      Một buổi chiều nọ, có một thầy tên là Tân đi thi hội, đến đây thì lỡ độ đường. Thấy có ngôi nhà tốt, anh bèn ghé vào xin nghỉ trọ. Người nhà kể lại câu chuyện đã qua và nói.
      - Chẳng giấu gì ông, nhà chúang tôi đang bị lũ quỷ quấy nhiễu. Ông nên đi tìm chỗ khác mà trọ, kẻo mang vạ vào thân.
      Nghe đoạn, nói vợ chồng phú ông:
      - Đã là học trò, đọc sách thánh hiền thì yêu tinh ma quỷ dám đâu trêu ghẹo. Ông bà cứ cho tôi nghỉ lại một đêm. Biết đâu tôi không trừ được nạn cho ông bà.
      Vợ chồng phú hộ nghe nói, bèn mở cửa đón khách vào. Ăn xong bữa chiều, Tân khoai thai bước lên lầu. Anh chỉ xin nhà chủ cho mình một ngọn đèn ngồi trước án thư đọc sách, con dao để sẵn bên người. Đến khuya, một con quỷ từ then cửa buồng cô gái hiện ra với dạng mạo một cô gái xinh đẹp. Tân vẫn điềm nhiên đọc sách không nói gì cả cho đến lúc nó biến đi. Lần thứ hai, một con khác tiến vào dưới dạng một người mặt mày hung ác, tóc xõa lưỡi thè chừng một gang. Nó chạm vào người Tân, nhưng anh vẫn thi gan mặc kệ. Đến lượt con thứ ba tức là con quỷ đầu đàn đang hớp hồn cô gái bước vào. Thấy bóng anh học trò, nó vội quay trở ra, chỉ kịp rú lên mấy tiếng: "Có bậc quý nhân...Trốn cả mau!" Tân lần này đã cầm sẵn dao ngồi rình, nhanh như cắt, nhảy đến chém một nhát, con quỷ đứt mất một chân. Tân chạy theo đến cửa buồng cô gái thì thóang thấy cả ba con quỷ chui biến vào then cửa. Anh cầm lấy chân quỷ soi vào đèn xem, thì thấy đấy làmột cái chân con cáo. Vì quỷ đau quá phải buông thả hồn ra nên ngay lúc đó cô gái cũng tỉnh dậy. Tân liền đến gần hỏi chuyện. Biết đó là người đã cứu mình, nàng cúi đầu chào và ngỏ lời cảm ơn. Tân dẫn nàng ra cho vợ chồng phú hộ. Lại đem chân con quỷ cho mọi người xem. Ai nấy đều lắc đầu lè lưỡi phục tài anh học trò.
      Sáng hôm sau lúc lên đường, Tân từ chối vàng bạc của hai vợ chồng phú hộ đưa tặng, chỉ xin họ cái then cửa buồng giắt vào thắt lưng. Đi được nửa ngày, anh đã thấy ba con quỷ hiện ra, phủ phục trước mặt, khẩn khoản xin anh làm phúc bỏ lại cái then cửa. Tân cười:
      - Không được! Chúng mày có tài phép gì thì cứ giở ra cho hết để tao xem, rồi tao sẽ cho chúng mày vào lửa.
      - Xin ngài tha cho chúng tôi.
      - Ba con quỷ đáp:
      - Chúng tôi xin tặng ngài những vật quý.
      - Vật gì đưa ra ngay, nếu không thì đừng có trách!
      Con quỷ thứ nhất đưa tặng Tân một cái mặt trời đựng trong túi, dặn rằng ban đêm, hễ rút ra khỏi túi thì trời sẽ sáng như ban ngày, cất vào túi thì trời lại tối sầm như cũ. Con thứ hai tặng một mặt trăng cũng vậy, hễ ban đêm tối tăm rút ra khỏi túi thì không cần đèn đuốc. Còn con thứ ba tặng một con ngựa mỗi ngày có thể đi ngàn dặm đường. Tân vui lòng nhận lấy những món quà tặng rồi ném cái then cửa vào một bụi rậm bên đường.
      Sau đó, tân nhảy lên lưng con ngựa, bảo đưa mình tới kinh đô. Lập tức, ngựa hí lên một tiếng rồi lao rất nhanh, bốn chân không chạm đất. Chỉ một lát sau, ngựa đã đặt anh xuống ở phía ngoài hoàng thành. Tân ở lại đây sắm sửa mọi thứ để dự kỳ thi hội.
      Hôm bắt đầu thi, bài của Tân làm rất đắc ý. Cho nên thi vừa xong buổi sáng, anh bỗng nhớ đến vợ. Sẵn con ngựa quý, anh nhảy ngay lên lưng, bảo nó đưa mình về quê nhà. Ngựa phóng tít mù, chỉ vừa chập tối là đến nơi. Anh khe khẽ gọi cửa. Vợ Tân đang ngủ rất kinh ngạc vì thấy chồng mình đi thi chưa được mấy ngày đã vội trở về. Tân không muốn thức cha mẹ dậy nên dặn vợ giấu kín chuyện mình về. Rồi hai vợ chồng nhỏ to trò chuyện cho đến mờ sáng anh mới lên đường. Mặc dầu vậy đêm ấy tiếng chuyện trò rì rầm của đôi vợ chồng đã thức tỉnh cha mẹ Tân nằm ở buồng bên. Hai ông bà không tin là con trai mình đã về, chỉ ngờ rằng nàng dâu có nhân tình nhân ngãi chi đây. Cho nên sáng hôm sau ngủ dậy, lúc đấy Tân đã cưỡi ngựa trở lại kinh đô để kịp nghe loa báo tin, hai ông bà vội vào buồng nàng dâu gạn hỏi. Vợ Tân trước còn giấu quanh, nhưng sau thấy không giấu được nữa, đành phải kể lại câu chuyện chồng về tối hôm qua, cùng những việc chồng mình trị quỷ, và được chúng tặng ngựa quý ra sao v.v... Nhưng bố mẹ chồng làm sao mà tin được một việc khó nghe đến thế, nên trách mắng con dâu thậm tệ. Vợ Tân không biết lấy gì làm chứng, đành chỉ ôm mặt ngồi khóc. May sao chiều hôm ấy Tân lại về. Được tận mắt thấy con trai và con ngựa thần, hai ông bà mới tin là thực. Tân kể chuyện cho bố mẹ và mọi người cùng nghe:
      - Sáng hôm nay, ngựa đưa con vào đến kinh đô thì cũng vừa lúc tiếng loa trường thi bắt đầu gọi tên những ai thi đỗ. Nghe loa gọi đến tên con, con mừng rỡ, vội ra nhà trọ thu xếp hành lý, phóng ngựa về đây. Ba ngày nữa con lại trẩy kinh để còn dự yến đêm do đức hoàng đế đãi các ông nghè ở điện thiên Quang.
      Nghe nói có con ngựa thần đi một ngày ngàn dặm, người cha ngỏ ý muốn cưỡi thử. Tân hỏi:
      - Bố muốn đi chơi đâu bây giờ?
      - Bố thường ao ước được vào tận trong Đồng Nai, Gia Định để du ngoạn một phen.
      - Được.
     Sáng hôm sau, ông già cơm nước xong, nai nịt chỉnh tề bước ra sân. Tân nắm dây cương trao cho cha. Ông già vừa nhảy lên yên, ngựa đã phóng đi vùn vụt, loáng một cái không thấy đâu nữa. Cho đến tận chiều, vào lúc mặt trời gác núi, con ngựa quý lại phóng như bay trở về, đặt ông già xuống giữa sân. Ông vui vẻ mở tay nải lấy quà mời gọi mọi người nếm thử, rồi kể chuyện tai nghe mắt thấy ở Gia Định.
      Mẹ Tân nghe chồng hết lời ca tụng con ngựa thần, cũng có ý định muốn đi chơi một chuyến. Qua hôm sau, Tân lại dắt ngựa ra sân rồi đỡ mẹ lên yên. Nhưng ngựa chưa kịp bước ra khỏi cổng, tự nhiên ngã khuỵu, hất bà già ngã lăn xuống đất. Một luồng khói trắng từ trong mình ngựa phóng ra và bay cuộn lên trời. Mọi người xúm lại xem thì con ngựa đã tắt thở từ lúc nào. Thì ra bà mẹ Tân đã cưỡi ngựa thần không đúng lúc vì bà đang thấy kinh nên thần ngựa hoảng sợ, bỏ lốt ngựa mà đi. Thiệt hại xảy ra cho ông tiến sĩ mới cả đơn lẫn kép. Không những mất một tặng vật quý vô giá, ông còn khó thoát tội "khi quân", vì trước mắt không có cách gì đến tiến kinh cho kịp chiều mai dự yến. Đường từ quê Tân đến kinh thành đi bộ mất bốn năm ngày đường, đi ngựa cũng phải hơn hai ngày. Không còn kế gì hơn nữa, Tân đành bắt một con ngựa thường, chẳng kịp từ biệt cha mẹ vợ con, vội ra roi cho con vật phi nước đại.
      Con ngựa đi đến tối mịt mà vẫn chưa được một nửa đường. Nằm nghỉ ở quán trọ, Tân lo lắng hết sức. Anh sực nhớ đến món tặng vật "mặt trời" do con quỷ thứ nhất biếu vẫn còn cất trong túi vải. Thế là Tân tìm ra một diệu kế. Ngày hôm sau, tân lại lên ngựa phóng đi. Cho đến khi mặt trời sắp gác núi, anh bèn lôi "mặt trời" của mình ra treo trước đầu ngựa. Thốt nhiên, một chuyện lạ chưa từng có xảy ra: đâu đâu cũng không thấy tắt ánh mặt trời. Cho đến khi con ngựa đưa Tân đến trước điện Thiên Quang, anh mới cất mặt trời vào túi, bấy giờ bầu trời từ ngày mới chuyển sang đêm một cách đột ngột.
      Tân buộc ngựa xong, bước vào điện. Nhưng cũng đã muộn mất rồi. Mọi người chờ mãi không thấy đêm xuống, xong thức ăn thì đã nguội cả, nên sau cùng Hoàng Đế đành ra lệnh cho các ông tiến sĩ cứ bốn người một, ngồi vào mâm. Khi Tân bước vào thì tiệc rượu đã hầu tàn. Biết việc chậm trễ có thể khiến mình mất đầu như chơi, nên anh cởi mũ "phủ phục" trước sân điện, một hai biện lý do "không thấy trời tối" để mong được nhẹ tội. Vua tha cho anh, nhưng để anh nhớ lỗi, bắt bổ anh về làm tri huyện một huyện từng nổi tiếng có nhiều án ma. Mặc dầu vẫn nghe nhiều tin đồn rùng rợn rằng từ trước đến nay, hễ quan nào được bổ về huyện ấy đều bị quỷ vật chết, Tân vẫn ung dung về trị nhậm.
      Theo tục lệ vùng này, mỗi khi quan mới bổ đến, dân các làng xã đều phải mang lễ vật đến chào quan. Cho nên những ngày Tân mới chân ướt chân ráo đến nơi, dân các làng kéo nhau đội lễ vật đến đầy cả công đường. Tân tiếp chuyện mọi người rất ân cần nhưng nhất thiết chối từ mọi lễ vật. Chàng kín đáo dặn lính hầu mỗi khi có toán dân nào ra về thì bí mật theo để biết rõ tung tích. Vào ngày thứ ba, một trong những người lính hầu mà Tân phái đi, đã theo bén gót hai người dân đội một mâm lễ vật trở về. Người lính thấy hai người dân đi mãi, đi mãi, bóng chiều đã ngã mà vẫn chưa đến nơi. Cho đến khi tắt ánh mặt trời mới thấy họ đến sát một cái giếng hoang bên cạnh đường. Thốt nhiên họ đội cả mâm, lội vùng xuống giếng, rồi thoáng một cái đã biến mất. Vừa kinh ngạc, vừa sợ hãi, người lính vội đi suốt đêm trở về báo lại tình hình cho quan biết.
      Sáng hôm sau, Tân hạ lệnh cho một toán lính huyện tới tát cạn cái giếng ấy. Họ ra sức tát suốt cả một ngày. Nhưng thật là lạ lùng! Tát được bao nhiêu nước lại đầy ắp bấy nhiêu. Mấy ngày sau nữa công việc cũng không nhích lên được tí nào. Bọn lính huyện cảm thấy rất chán nản. Một hôm nọ, vào giữa canh khuya, một người lính nằm ngủ, bỗng thức giấc thấy có hai con quỷ đang ngồi vắt vẻo trên cành cây nói chuyện với nhau.
      - Nếu chúng nó kéo tới đông thì có tát cạn chăng? - Một con hỏi.
      - Nhiều người cũng vô ích thôi. Chỉ có rồng mới có thể tát cạn, ngoài ra không còn cách nào khác. - Con kia đáp.
      Người lính bèn đem câu chuyện ấy trình lên quan. Tân nói ngay:
      - Chính ta là rồng đây! Ta sẽ thân hành tát cạn giếng.
      Nói xong, Tân cưỡi ngựa về đến tận nơi. Sau khi xem xét tình hình, quan xắn áo quần, cầm lấy gàu tát lấy tát để. Quả nhiên chỉ một mình Tân cũng đã làm cho nước giếng dần dần cạn thấu đáy. Nhưng khi giếng cạn hết, cả quan và lính đều không tìm thấy quỷ. Giữa ban ngày, quỷ có phép tàn hình, mắt người không thể tìm thấy được. Nhưng đêm đến, quỷ lại dựa vào tối trời, lẫn lút trốn nấp trong các hang hốc làm cho Tân và lình hầu tìm hết hơi mà mãi không ra. Họ thắp đuốc lên nhưng bó đuốc nào hễ đưa vào cửa hang cũng đều tắt ngấm không thể chụm lên được. Tân sực nhớ một món tặng vật bèn mở túi lấy ra "mặt trời" treo lên treo lên đầu ngọn tre. Lập tức cả một vùng sáng rực như ban ngày. Nhưng vì ban ngày nên quỷ lại tàng hình lọt khỏi con mắt của người. Sau cùng Tân nhớ đến món tặng vật thứ hai. Vừa đưa ra khỏi túi "mặt trăng" tỏa một thứ ánh sáng dịu mát vào khắp mọi nơi. Tân liền mang "mặt trăng" đi dần xuống giếng, tiến vào các hang, các hốc. Dưới ánh sáng trăng, quỷ đành lộ mặt, không thể tàn hình nổi. Cho nên chỉ một chốc, chưa giập miếng bã trầu, quan và lính đã tóm được hai con quỷ. Chính đó là hai con xà tinh quen thói hại người, thường dùng một cái hang ở đáy giếng làm sào huyệt. Trước mặt Tân, hai con quỷ cúi đầu lạy lục xin quan sinh phúc tha cho tính mạng, từ rày không dám làm hại ai nữa. Tân sai lính giải chúng đày thật xa. Từ đấy dân huyện ấy sống rất yên ổn mà làm ăn.
            
Bãi Ông Nam
     Ở gần mũi Cà Mau hiện nay còn một cái miếu rất linh thiêng, đó là miếu Ông Nam.
      Ông Nam tức là "Nam Hải đại tướng quân" chức vị mà nhà vua phong cho cá ông. Tục truyền rằng xưa kia đức Ngọc Hoàng giao cá Ông nhiệm vụ cứu vớt dân chài lưới khi họ gặp nạn giông tố. Mỗi "ông Nam đều có hai con mực cầm cờ dẫn đầu. Hai bên là hai con cá đao hộ vệ. Nếu gặp người lâm nạn mà ông Nam không cứu vớt tận tình thì cá đao có quyền tiền trảm hậu tấu, giết ông Nam lập tức.
      Một ông Nam nọ trấn thủ vùng vàm sông ông Đốc, vịnh Xiêm La.
      Nhằm tiết tháng giêng, nghe lời cá đao và con mực, ông Nam bày một cuộc ngao du bọc theo mũi Cà Mau qua vòm sông Cửu Long. Cá mực và cá đao nói:
      - Ngài cứ đi. Dẫu đường xa xôi nhưng chúng ta dư thì giờ trở về vàm sông ông Đốc trước mùa giông.
      Qua khỏi mũi Cà Mau, ông Nam đến vàm sông Bồ Đề. Bỗng đâu gió nổi lên ầm ầm. Cá mực và cá đao hốt hoảng:
      - Trời nổi giông rồi ông ơi! Có người chìm ghe ở sông Bồ Đề. Phải về cứu gấp.
      Ông Nam giật mình, dè đâu tai nạn xảy ra thình lình như thế này! Từ đây về vàm sông ông Đốc phải đi trên một ngày đường làm sao cứu kịp. Trong lúc ấy, cá đao hối thúc bên hông. Ông Nam vô cùng hối hận vì không làm tròn nhiệm vụ của Ngọc Hoàng giao phó. Ông nói:
      - Về đường biển thì không kịp, vì phải đi quanh. Chi bằng ta liều thân vào ngọn sông vượt đường rừng đi tắt.
      Dứt lời, ông vào vàm sông Bồ Đề. Mùa nước cạn, thân hình ông Nam quá lớn nên phải trườn trên bãi sông rất mệt nhọc. Nhè ông Nam có thai, gần kì sinh đẻ nên sảy thai, đứa con trong bụng đẻ non dọc đường.
      Ông Nam nhìn thi hài đứa con yêu dấu, không dám bịn rịn ở lại, cứ bò riết xuyên rừng tràm, rừng đước mà về dòng sông ông Đốc, nơi ông lãng trách nhiệm chân thủ.
      Đến nơi, Ông Nam lập tức ra biển, cứu chiếc ghe chim nọ. Sứ mạng làm tròn nhưng ông Nam phải mang bệnh, mất sức khỏe rất nhiều.
      Hay được tin ấy, Ngọc Hoàng xá tội cho Ông Nam. Và dân chúng ở bãi sông Bồ Đề lập một cái miếu để thờ đứa con vô tội của Ông.
                              
  Báu Vật Thần Thông
     Ngà xưa có hai ông bà già sống nghèo lắm. Già cả không làm lụng được, không có ai nhờ cậy, đành chỉ biết trông chờ vào của bố thí.
      Hai ông bà già đợi đến mùa xuân. Mọi người bắt đầu gieo trồng. Bấy giờ, bà cụ mới bảo với ông cụ:
      - Ông ơi, giá ông cũng trồng được một ít kê. Tôi sẽ thu lượm lấy một thúng, bấy giờ ta sẽ nấu cháo kê ăn, chứ nhá bánh khô, răng lợi chẳng còn, nhá không nổi nữa.
      - Được.
      - Ông cụ đáp.
      -Tôi sẽ trồng.
      Ông cụ cố cày cuốc được thành một mảnh đất nhỏ gần bụi cây, rồi đem kê ra trồng.
      Kê mọc lên, cứ thế lớn. Nắng sưởi cho nó ấm, mưa tưới cho nó mát. Ông cụ nhìn kê lớn hàng ngày lòng vui mừng khấp khởi.
      Một bữa kia như mọi ngày ông cụ lại ra thăm ruộng kê của mình. Lần này ông cụ thấy một con sếu đi đi lại lại trên ruộng.
      - Hú ú, gớm chưa!
      - Ông cụ quát con sếu.
      - Tìm được chỗ dạo chơi mới hay nhỉ!
      Con sếu cất cánh bay đi.
      Ông cụ xem xét lại thì ruộng kê đã bị giẫm nát cả.
      - Sếu đã hủy hoại hết kê của ông rồi.
      Buồn rầu, chở về nhà, ông cụ nói với vợ:
      - Kê đang lớn, đang tốt, nhưng lại gặp tai họa: một con sếu ở đâu bay đến sà xuống ruộng, dùng đôi chân dài nghêu của nó giẫm nó hết kê rồi. Bây giờ, chẳng còn gì mà thu hoạch nữa.
     Bà cụ cũng buồn, nhưng sau đó lại bảo:
      - Nhưng ông ơi, ông vốn là tay thợ săn giỏi kia mà. Khẩu súng của ông còn nằm lăn lóc trên trần nhà ấy. Ông xách súng đi bắn chết cái con sếu ấy đi. Thôi thì không có cháo kê, ta sẽ được ăn bữa thịt.
      Ông cụ nghe lời, lấy khẩu súng ở trên trần nhà xuống, lau chùi sạch sẽ, nhồi đạn rồi đi ra mảnh ruộng kê.
      Tới nơi, ông cụ lại thấy con sếu giẫm xéo trong đám ruộng.
      Ông cụ tức giận, đưa súng lên ngắm và đã định nhả đạn vào sếu.
      Nhưng con sếu ngẩn đầu lên và cất tiếng nói như người:
      - Khoan đã ông! Ông định làm cái trò gì vậy?
      - Ta sẽ bắn ngươi chứ sao?
      - Ông cụ đáp.
      - Ngươi giẫm xéo nát hết ruộng kê của ta bằng đôi chân dài nghêu của ngươi.
      Sếu bèn nói:
      - Ông ạ, cháu không biết rằng kê này là của ông. Nghĩ bụng là kê của địa chủ. Ông tha lỗi cho cháu.
      - Nói dễ nghe nhỉ. Xin lỗi!
      - Ông cụ nói.
      - Ta chẵng còn gì khác, chỉ có mỗi một hy vọng vào ruộng kê này. nhưng bây giờ đến chết đói chỉ vì ngươi mà thôi.
      Sếu nghe hết lời than thở của ông già:
      - Thôi được, một khi ông nghèo như vậy thì.
      - Sếu nói.
      - Ông đợi cho một chút. Cháu sẽ mang quà lại để bù cho ruộng kê của ông.    Sếu vung cánh bay lên khuất sau các bụi cây.
      Ông cầm súng đứng suy nghĩ: " có lẽ con sếu lừa ta. Ta không nổ súng thật uổng. Bây giờ ta biết nói gì với bà lão đây?".
      Nhưng vừa suy nghĩ như vậy, nhìn lên ông đã thấy con sếu từ sau các bụi cây bay về và mỏ cắp một cái bị.
      Sếu bay đến đưa cái bị cho ông cụ.
      - Ông ơi cháu biếu ông.- Sếu nói.- Để bù vào ruộng kê.
      Liếc mắt nhìn ông cụ thấy đó chỉ là một cái bị ăn mày.
      Ông cụ lắc đầu trả lời:
      - Ta cần gì cái bị này?. Người anh em ơi, cái bị của chính ta cũng đã đủ chán rồi. Ta chính là một kẻ hành khất ăn mày, thì ngươi cũng biết đấy, cái bị cái gậy đó là toàn bộ gia tài của một kẻ ăn xin.
      - Ông cứ cầm lấy, một cái bị như thế này ông không có nổi đâu. Đây là cái bị thần. Chỉ cần ông đặt ra trước mặt và bảo: " Bị ơi, hãy mở ra, cuộn vào cho ta ăn uống", thế là chớp mắt sẽ có mọi thứ. Và khi ăn no nê rồi thì chỉ cần nói: "Bị ơi, hãy mở ra, cuộn vào dọn thức ăn đồ uống đi", thế là cái bị lại sẽ trông như cũ.
      - Nếu như vậy thì xin cảm ơn. - Ông cụ nói và mang cái bị ra về.
      Ông cụ nóng lòng muốn xem con sếu có nói thật hay không, bèn ngồi ngay xuống lề đường, đặt cái bị lên đùi và lên tiếng câu xin:
      - Bị ơi bị, hãy mở ra, cuộn vào cho ta ăn uống.
      Và thật là kì lạ!. Trong chớp mắt, một bữa ăn thịnh soạn hiện ra trước mắt ông. Một bữa ăn ngay nhà địa chủ cũng chẳng thấy: bánh rán, bánh vòng, thức rán, thức luộc, món ngọt, đồ nhắm, rượu vang đủ thứ...
      - Sếu khá lắm, không lừa ta!. - Ông cụ mừng rỡ.
     Ăn no, uống say ông cụ ra lệnh cho cái bị thu dọn, nhét cái bị vào ngực áo rồi vui vẻ đi tiếp.
      Về tới nhà ông gọi to:
      - Bà nó còn sống không, còn mạnh khỏe đấy chứ?
      - Còn đây, còn đây!. Thế ông ra sao? Ông đi lâu quá đấy. Tôi nghĩ bụng nói dại, ông đã bị sói ăn thịt hay gấu bóp chết lôi vào bãi rêu ném ở đấy.
     - Không, bà nó ơi, chó sói không ăn thịt tôi, gấu cũng không bóp chết tôi, mà tôi lại mang bánh mì với muối về đây, đủ cả đời ta no đủ. Bà nó ngồi vào bàn đi.
      Ông cụ lôi ở ngực áo ra cái bị đặt lên bàn và nói những lời cần thiết.
      Bà cụ trợn mắt ngạc nhiên. Không những đủ thứ đồ ăn thức nhắm xuất hiện trên bàn mà căn nhà cũng sáng hẳn ra...
      - Ông ơi, ông lấy đâu ra đấy?
      - Chính con sếu bà bảo tôi phải bắn chết đã cho đấy.
      - Ôi ôi!
      - Bà cụ hai tay ôm lấy đầu kêu lên.
      - Sao ông lại đi bắn chết con sếu tốt như vậy?
      Bà cụ ăn no, uống đủ, rồi nói với ông cụ:
      - Ta mời khách đi.
      - Khách nào?
      - Tất cả những ai không có gì ăn.
      - Ừ, bà mời đi. - Ông cụ rất vui lòng.
      Bà cụ đi khắp làng mời tất cả các gia đình nghèo đói.
      Khách khứa ai ai cũng đầy thích thú vừa lòng về cái bị thần. Bây giờ hàng ngày họ đều đến nhà ông bà già đánh chén.
      Tên quản lí của địa chủ biết chuyện cái bị thần bèn về mách với chủ.
      - Không thể có chuyện một kẻ ăn mày vớ vẩn lại ăn uống ngon hơn ta!
      - Tên địa chủ hay ganh tỵ nổi giận.
     Hắn cho đóng ngựa vào xe, tìm đến nhà ông bà già.
      - Có đúng là. - Hắn hỏi. - Lão có cái bị thần cho lão thức ăn không?
      Ông cụ không biết nói dối nên kể hết sự thật.
      - Lão cho ta xem nào.
      Ông cụ đặt bị thần lên bàn và ra lệnh cho nó bày biện các món ăn.
      Tên địa chủ ngây người vì ngạc nhiên. Các món thịt rán, thịt nấu vừa xuất hiện trên bàn thậm chí đầu bếp của hắn cũng không sao làm nổi!
      - Lão đưa tao cái bị.
      -Tên địa chủ bảo ông cụ.
      - Lão thì cần gì những món ăn cao sang kia chứ, còn như ta thì các vị bá tước công hầu thăm luôn. Ta sẽ thết đãi các vị ấy!
      - Không! ông lão từ chối.
      - Tôi không thể đưa cho ông được. Ai sẽ thay nó nuôi tôi với bà lão.
      Tên địa chủ hứa hẹn:
      - Ta sẽ gửi cho lão cả một xe ngựa chất đầy thức ăn lương thực bình dân: bánh mì, khoai tây, mỡ lợn, muối...
      Tên địa chủ cứ bám lẳng nhẳng, ông cụ không còn biết làm sao nữa.
      -Mà lão không tự ý đưa cho ta, bấy giờ ta sẽ cưỡng đoạt lấy mà còn cho lão ăn roi da.
      Câu chuyện với địa chủ chỉ ngắn gọn có thế. Biết làm thế nào, ông cụ buộc lòng phải đưa cho tên địa chủ cái bị thần.
      Tên địa chủ trở về dinh cơ của hắn, mừng rỡ, tháng ngày rong chơi, không ngày nào không mời khách khứa.
      - Cái bị ngoan ngoãn tuân theo lệnh của hắn. Còn về ông bà lão hắn không nhớ tới lấy một lần.
      Ông cụ chờ mãi, chờ tên địa chủ gửi trả những thứ đã hứa bù vào cái bị thần, nhưng đợi chờ mãi cũng chẳng thấy.
      - Có thể, ông ta quên những điều đã thỏa thuận.
      -Bà cụ nói: Ông ơi, hay ông tới nhắc ông ta.
      Ông cụ đến gặp tên địa chủ, nhưng hắn không muốn tiếp chuyện cụ nữa!
      - Ta làm gì có bánh mì cho lão. Thôi! Đi mà ăn xin của thiên hạ.
      - Nếu vậy thì ông trả cho tôi cái bị.
      - Ông cụ nói.
      - Ái chà! Lão còn dám thế nữa!
      - Tên địa chủ quát tháo.
      - Ta sẽ cho lão biết cái bị như thế nào! Này, gia nhân đâu, cho lão già này hai mươi nhăm gân bò để lần sau đừng có vác mặt đến nữa.
      Bọn đầy tớ túm lấy ông cụ, đánh đập tàn tệ rồi đuổi ra khỏi dinh thự.
      Ông cụ về nhà, kể lại cho bà cụ biết mình đã được trả nghĩa như thế nào. Bà cụ buồn rầu, chửi rủa tên địa chủ và nói với ông cụ:
      - Ông ơi, ông đi tìm con sếu nhân từ kia đi. Có thể nó sẽ cho ông một cái bị khác như thế chăng.
      Ông cụ thu xếp ra đi đến cánh đông, ngồi vào ruộng kê chờ đợi.
      Bỗng nhiên, ông nhìn thấy con sếu bay tới. Ông cụ liền nói với sếu:
      - Này người anh em sếu ơi, địa chủ đã đoạt cái bị tuyệt vời của sếu cho lão rồi. Mà còn sai đầy tớ lấy roi da bò đánh cho lão một trận nên thân. Bây giờ lão và bà ấy nhà lão biết sống như thế nào đây? Có thể sếu cho lão một cái bị giống như vậy chăng?
      Sếu suy nghĩ một lát rồi bảo:
      - Không! Cháu không cho ông cái bị khác. Tốt hơn cho ông cái sừng.
      Sếu bay đi đâu khuất sau các bụi cây, rồi trở lại cắp trong mỏ một cái sừng bằng bạc.
      - Đây ông cầm lấy cái sừng thay cho cái bị, Sếu nói.
      - Nhưng biết làm gì với nó? Ông cụ hỏi.
      - Ông mang cái sừng bạc này đến gặp tên địa chủ và bảo: "từ trong sừng ra cái gì cũng lắm". Sau khi ông đã trừng trị tên địa chủ rồi, thì ông bảo: "ồ, tất cả trở về sừng".
      Nói rồi sếu tung cánh bay đi.
      Ông cụ cầm chiếc sừng trên tay loay hoay xoay trở, nghĩ bụng: "Hẳn là sếu lại cho ta một vật thần kì đây nhưng ngộ nhỡ chính vì nó mà mình bị ăn đòn"...
      Trên đường về nhà ông cụ nghĩ miên man về chiếc sừng. Liệu có nên mang chiếc sừng đến gặp tên địa chủ hay không?.
      Đang đi trên đường ông cụ gặp tên quản lí của địa chủ.
      - Đi đâu về thế ông lão?
      - Tên quản lí hỏi.
      - Thưa ông nhỏ, lão vừa đến gặp con sếu quen cũ.
      - Nó cho ông cái gì không.
      - Một cái sừng bằng bạc.
      - Lão cho ta xem nào.
      Ông cụ lấy chiếc sừng bạc để trong túi ra cho tên quản lí xem.
      -Nhưng có ích lợi gì?
      - Tên quản lí hỏi.
      - Chẳng có gì cả. Ông già trả lời.
      - Chẳng có gì cả là như thế nào nhỉ? Lão giấu ta điều gì hả? Có thể từ trong chiếc sừng này vàng sẽ đổ ra?
      - Có thể lắm...Ai mà biết được!
      - Vậy thì lão ra lệnh cho nó đổ vàng ra đi. Tên quản lí sán đến.
      - Ông muốn ra lệnh thì cứ ra lệnh.
      - Như thế nào nào?
      - Xin cứ nói: "Từ trong sừng ra cái gì cũng lắm!"
      - Từ trong sừng ra cái gì cũng lắm! Tên quản lí tham lam chỉ nghĩ đến tiền bạc liền hét lên.
      Và đột nhiên, không hiểu từ đâu mà có, từ trong chiếc sừng mười hai chàng trai trẻ tráng kiện tay cầm roi da nhảy ra và quất túi bụi tên quản lí một trận.
      Tên quản lí rú lên, cầu khẩn:
      - Xin ông lão can cho, không gì họ đánh tôi chết mất...
      Còn ông già buồn cười nôn ruột.
      - Đừng có mà tò mò, mà lại tham lam của người khác nữa nhé! Và cũng đừng có nhúng mũi vào ruộng kê của người khác!
      Các chàng trai tráng kiện đánh cho tên quản lí một trận thâm tím cả người.
      Bấy giờ ông cụ mới bảo:
      - Ồ! Tất cả trở về sừng.
      Và tất cả chàng trai trong chớp mắt biến hết vào chiếc sừng.
      "Ồ, bây giờ thì lão biết con sếu hiền từ cho lão cái sừng để làm gì!"
      - Ông lão cười thầm và đi thẳng đến dinh cư địa chủ.
     Ông cụ đến nơi giữa lúc nhà tên địa chủ đông chật những khách là khách. Bọn chúng đang ăn, đang uống, đang vui thú. Cái bị của ông già nằm trên bàn.
      - Ông lão có chuyện gì vậy?
      - Tên địa chủ hỏi.
      - Lão đến, thưa ông chủ, để đòi lại cái bị.
      - Ha, ha, ha!
      -Tên địa chủ cười, tay chống nạnh. Các người đã thấy một tên già ngu ngốc nào khác hơn thế này bao giờ không! Lão lại muốn ăn roi da hả? Này gia nhân đâu, đánh cho lão già hai mươi lăm roi cho các vị khách của ta xem!
      Ba đầy tớ túm lấy ông cụ, vật ông xuống sàn nhà. Nhưng ông đã kịp lấy chiếc sừng từ trong túi ra và lớn tiếng quát gọi:
      - Từ trong sừng ra cái gì cũng lắm.
      Từ trong chiếc sừng, mười hai chàng trai trẻ tráng kiệt mang roi da nhảy ra và bắt đầu quật bọn đầy tớ, rồi quật tên địa chủ, tiếp đến bọn khách của hắn.
      Tên địa chủ bị đòn nhiều hơn cả. Ông cụ đứng bên cạnh và ra lệnh:
      - Cho bọn đầy tớ một roi! Khách khứa hai roi còn địa chủ ba roi!
      Các chàng trai trẻ tráng kiệt cứ thế làm theo, như ông cụ ra lệnh.
      Tên địa chủ rên rỉ, nhưng biết không trốn thoát đành lên tiếng van xin:
      - Ông lão, ông cứ lấy lại cái bì, chỉ xin lão bảo con trai của lão dừng lại cho.
      - Giá nhà anh nói thế từ đầu rồi thì có phải hơn không. Ông già cười khẩy.Nhưng bây giờ chỉ biết đem cái bị của người khác ra mà chuộc thôi thì không xong.
      - Thế lão muốn gì nữa? Ta sẽ cho lão con ngựa, con bò cái...
      - Không, không, như vậy vẫn còn ít.
      - Ối, ối, ối! Tên địa chủ kêu lên. Xin lão nói mau cho biết lão muốn gì nữa, chứ không bọn con trai của lão đánh ta chết mất.
      - Nếu nhà anh còn sống sót. Ông cụ nói: Hãy trao dinh cơ cho người nghèo còn bản thân phải cuốn xéo đi cho khuất mắt! Muốn đi đâu thì đi!
      Tên địa chủ càng van xin hơn trước.
      - Ối, ối, nhưng làm sao tôi sống được không có cơ nghiệp?
      - Tùy nhà anh. Ông già nói: Ê, các chàng trai, quay tất cả các roi lại nện cho hắn thật lực!
      Các chàng trai trẻ tráng kiệt tha cho khách khứa và bọn đầy tớ, quay tất cả đánh tên địa chủ.
      Tên địa chủ quằn quại, xoay trở dưới những ngọn roi như cá trên chảo nóng, rồi sau cùng không chịu nổi. Hắn nói:
      - Tôi xin trao cả cơ nghiệp!
      - Được, thế thì được. Có điều chớ có mà lừa lọc chứ không lão còn phương thuốc trị nhà anh!. Ông cụ cười. Ồ tất cả trở về sừng!
      Và các chàng tráng kiện lập tức chui tọt vào chiếc sừng nấp kín.
      Ông già cất chiếc sừng vào túi và bảo:
      - Mai lão sẽ đến xem lại: nếu nhà anh còn chưa đi, lão lại cho bọn con trai ra cho nhà anh thêm trận nữa!
      Và ông cụ vui vẻ trở về nhà, mang theo cái bị và chiếc sừng bạc.
      Còn tên địa chủ sang ngày hôm sau vừa tinh mơ đã vội rời dinh thự. Hắn sợ ông già cùng với những chàng trai quay trở lại.

                Nhất Bên Trọng,  Nhất Bên Khinh
     Anh thợ Mộc hay chữ vào làm cho nhà một ông quan hưu trí. Ông ta thấy anh lanh lợi, nói năng hoạt bát, mới hỏi:
      - Trước kia anh có học hành được chữ nào không?
      Anh ta trả lời:
      - Bẩm có ạ!
      Ông quan liền chỉ con ngựa bạch quý của mình đang đứng ăn ở góc sân, bảo:
      - Anh thử làm bài thơ vịnh con ngựa xem, hay thì ta sẽ thưởng.
      Anh thợ mộc ứng khẩu đọc:
      Bạch mã mao như tuyết (Ngựa trắng lông như tuyết).
      Tứ túc cương như thiết (Bốn chân cứng như sắt).
      Tướng công kị bạch mã (Tướng công cưỡi ngựa trắng).
     Bạch mã tẩu như phi (Ngựa trắng chạy như bay).
      Quan gật đầu khen hay rồi thưởng cho một thúng thóc, bên đồ lề, thấy bên nặng bên nhẹ, liền nói chữ "Nhất bên trọng, nhất bên khinh". Quan nghe nói liền nghe thêm thùng thóc nữa để gánh cho cân.
      Anh ta về kể lại chuyện cho mọi người nghe. Có anh hàng xóm dốt đặc cán mai, nhưng thấy được lắm tiền, lắm thóc như thế, nổi tính tham, liền bảo anh thợ mộc dạy cho bài thơ và câu nói chữ nọ. Học thuộc rồi, anh ta cũng sắp một đôi quang gánh và một ít dụng cụ vào dinh quan xin việc.
      Quan cũng hỏi như lần trước, và anh này hí hửng đáp mình là học trò. Quan nhìn ra sân, thấy bà cụ quét sân bèn bảo anh ta làm thơ vịnh bà cụ. Anh này đã hơi lúng túng, vì chỉ thuộc mỗi một bài thơ vịnh con ngựa, bây giờ biết vịnh bà cụ như thế nào? Nhưng đã trót thì phải trót cũng "ứng khẩu" đọc:
      - Bà cụ mao như tuyết... Quan gật đầu:
      - Ừ, được đấy!
      Nghe quan khen, anh ta vững bụng đọc tiếp:
     - Tứ túc cương như thiết.
      Quan cau mày:
      - Ý hơi hẹp, nhưng cũng tạm được, ngâm thiếp đi!
      Mừng quá anh ta ngâm một mạch:
      - Tướng công kị bà cụ,
      Bà cụ tẩu như phi.
      Quan nghe xong giận quá, quát người nhà nọc ra đánh cho ba mươi roi vào mông. Đứng dậy anh ta vừa xoa vừa nói: "Nhất bên trọng, nhất bên khinh". Quan nghe liền bảo đánh ba mươi roi vào lưng cho cân.
       
  Cây Hoa Sen Và  Con Chim Cốc
      Đời nhà Lý, có một anh ngư phủ tuy nghèo nhưng được cái duyên lấy người vợ đẹp. Tuy là đẹp người đàn bà này lại có tính lẳng lơ, có lần lại lén lúc giao tình với người khác.
      Ngày nọ, có một nhà sư đi ngang chiếc ghe của gã ngư phủ, thấy vợ gã này xinh đẹp thì động tà tâm mới tìm cách lân la, bày việc kinh kệ cúng vái ở ghe gã thuyền chài.
      Chẳng bao lâu nhà sư quan hệ được với vợ gã đánh cá. Chỉ có gã này bình chân như vại, không hay biết gì về chuyện lẹo tẹo của vợ mình.
      Một hôm, thừa lúc người chồng đi vắng, người vợ rước nhà sư đến ghe, rồi toan bày cuộc mây mưa. Thình lình người chồng trở về, người vợ và nhà sư đều kinh hoảng, không biết trốn ở đâu cho thoát.
      Lúng túng một hồi, cả hai đều nhảy ùm xuống sông. Vì không biết lội nên cả hai điều chết đuối. Người cợ thì hóa thàh cây hoa sen, nhà sư thì hóa thành cá hòa thượng.
      Còn gã đánh cá, vì thấy quả tang nhà sư và vợ mình nhảy xuống sông nên nhảy theo để bắt, nhưng lặn hụp mãi bắt không được ai cả. Anh ta phẫn uất tự tử chết luôn, nên hóa thành con chim Cốc để rình rập bắt cá hòa thượng ở nơi nào có cây hoa sen mọc.

                                Cao Biền Dậy Non
     Ngày xưa ở Trung Quốc có Cao Biền rất giỏi nghề địa lý. Những phép hô thần tróc quỷ, ông đều thông thạo. Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung Quốc nghe tiếng, liền triệu Biền vào cung, ủy thác cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng tẩm. Cao Biền vâng lệnh và sau năm năm tìm tòi, hắn đã kiếm được một kiểu đất quý mà theo hắn có thể giữ ngôi nhà Đường vững như bàn thạch.
      Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen ngợi, sai ban rất nhiều vàng bạc cùng phong tước lớn cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của hoàng đế có một ngòi bút thần có phép mầu nhiệm mà chính hoàng đế và cả triều thần không một ai biết cả. Vì thế Biền không nhận vàng, hắn nói:
      Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho trong trăm ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ thần rút trong chùm chìa khóa, nhằm chìa kho nào thì được phép lấy kho ấy.
      Hoàng đế nghe nói, hơi ngạc nhiên nhưng vốn trọng tài Biền, lại thấy ý kiến hay hay nên vui lòng để cho hắn làm chuyện may rủi xem thử thế nào.
      Quả nhiên kho mà Biền chỉ, đúng là kho đựng toàn bút lông dùng cho triều đình. Khi được sử dụng hàng vạn cây bút lông, hắn mang đến một hòn đá, lần lượt đem ra chọc mạch từng ngòi lông vào đá. Nhưng chẳng có ngòi nào được toàn vẹn. Mỗi lần thấy tòe ngòi, hắn lại vứt đi và tiếp tục chọc ngòi khác vào đá. Cứ như thế cho đến lúc trong kho sắp vơi cả bút thì bỗng có một quản bút chọc thủng vào đá mà ngòi lông còn nguyên vẹn, Biền mừng quá, reo lên:
      Ta tìm được ngòi bút thần rồi!
      Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên mặt tường, chừa hai con mắt. Đến khi điểm nhãn, rồng tự nhiên cuộn mình được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng vụt lên trời xông vào đám mây trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Biền lại vẽ thêm nhiều con vật khác và những con vật ấy đều họat động không khác gì những con vật có thật.
      Rồi đó Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng bút thần nhúng mực điểm mắt cho diều. Diều tự nhiên bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa ông vút lên trên không. Sau đó Biền cưỡi diều vượt qua muôn trùng núi sông, sang đến nước Nam.
      Trên lưng diều, Biền đưa mắt xuống tìm huyệt đất quý. Quả nhiên không bao lâu hắn tìm thấy ở gần một con sông, cứ như bây giờ là sông Trà Khúc tỉnh Quảng Ngãi, một huyện đất phát đế vương. Huyện đất ấy quý không đâu bằng mà lại chỉ trong một ngàn ngày là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới nước mà chỉ có con mắt của Biền mới khám phá được. Từ đó, Biền có ý muốn hưởng một cuộc sống sung sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ. Nhưng khi nghĩ lại thì hắn rất tiếc là không có con trai mà thân mình thì đã già mất rồi, nếu được làm vua cũng không hưởng được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho con rể. Nếu nó làm vua thì ông bố vợ của nó tất được bồi phần trọng đãi, mà dòng dõi của con gái mình cũng được hưởng kết quả tốt đẹp đó. Nhưng muốn thực hiện cần phải giữ hết sức bí mật, nếu không sẽ mất đầu như chơi. Nghĩ vậy, hắn trở về Trung Quốc bảo người rể đào lấy hài cốt của cha nó đem sang nước Nam để cải táng.
      Trong việc này hắn chỉ bàn kín với một người học trò của mình mà thôi. Nhưng người học trò mà hắn tin cậy lại muốn miếng đất quý ấy hoàn toàn thuộc phần y hưởng, nên khi được lệnh thầy mang hài cốt thì hắn cũng đào luôn hài cốt của cha mình sang Nam.
      Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo học trò lặn xuống ném gói xương vào giữa miệng rồng chờ cho nó ngậm lại hãy lên. Người học trò đem gói xương của cha mình đánh tráo vào, còn gói xương kia thì bỏ một bên mép.
      Xong việc đó, Cao Biền bảo người rể chọn năm giống lúa mỗi thứ một thúng mang đến huyệt đất nói trên, sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt. Mỗi huyệt hắn sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho chàng rể một ngàn nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai năm chín tháng mười ngày thì tự khắc quân gia dưới huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở về Trung Quốc.
      Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ còn mười ngày nữa là hết hạn công việc mà Cao Biền đã dặn, thì tự nhiên người con gái của hắn ở nước Nam đẻ luôn một lúc ba người con trai mặt mũi kỳ dị. Vừa mới sinh ra, ba đứa đã biết đi biết nói: Một đứa mặt đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt màu thiếc, một đứa mặt màu xanh đều cầm dao sáng quắc. Cả ba đức nhảy tót lên giường thờ ngồi, đòi đem quân để thu phục thiên hạ. Người nhà ai nấy xanh mặt. Chỉ trong một buổi tiếng đồn rầm lên. Mọi người thấy sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của Biền sợ quá, bảo vợ:
      - Mày đẻ ra ma quỷ, nếu không sớm trừ đi thì khó lòng sống được với triều đình. Chẳng qua cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế.
      Rồi đó hắn chém tất cả. Trong lúc bối rối, người nhà của hắn vì lầm nên đốt tất cả nén hương còn lại. Tự dưng đất chuyển động. Ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm rầm mỗi lúc mỗi lớn. Thế rồi nắp mộ tung ra, bao nhiêu quân gia dưới đó nhảy lên. Nhưng vì còn non ngày nên người nào người nấy sức còn yếu, đứng chưa vững, ai nấy đều bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng chết hết.
      Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến ngày hẹn mới cưỡi diều bay sang nước Nam. Nhưng lần này diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ cánh xuống thì người con rể đã phá hỏng mất công việc của hắn. Hắn bực mình vô hạn. Và sau khi thấy rõ câu chuyện, hắn rút gươm chém chết cả học trò lẫn rể.
      Từ đó Cao Biền sinh ra chán đời, chả thiết gì nữa. "Không được ăn thì đạp đổ". Nghĩ thế, hắn thường cưỡi diều đi khắp nước Nam để ếm huyệt và phá tất cả các long mạch. Ngay chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chám đứt cổ con rồng đó đi. Cũng vì vậy mà ngày nay người ta nói nước sông Trà Khúc đỏ như máu là bởi vì có máu tự cổ con rồng chảy ra.
      Đến Nghệ An, Biền thấy trên một hòn núi mà ngày nay còn gọi là núi Đầu Rồng ở sát bờ biển có huyệt đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh núi. Vì thế đỉnh núi ấy từ đó trở đi không một cây cối gì mọc được.
      Ở Thanh Hóa, Cao Biền cũng thấy có đất quý. Nhưng hắn thấy con rồng đó què một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to được. Cho nên hắn cho diều đi thẳng không ếm nữa. Cũng vì thế người ta nói mấy đời vua chúa trị vì ở nước Việt Nam đều phát tích ở Thanh Hóa.
      Khi diều bay qua làng Thiên Mỗ (bây giờ là làng Đại Mỗ tỉnh hà Đông), Biền thấy có cái giếng ở vệ sông mà bây giờ là Nhuệ Giang cũng có huyệt đế vương. Hắn bèn cho diều hạ xuống là là sát mặt đất, đọan thuận tay nén luôn cây bút thần của mình xuống lòng giếng đó. Người ta nói cây bút ấy sau rồi hóa thành một khúc gỗ cắm chặt xuống đáy giếng. Không một ai dám động đến nó. Mãi về sau trong làng có một ông thám hoa có tính hiếu kỳ mới tâu vua xin hai con voi về kéo thử khúc gỗ đó lên. Họ tết một chiếc thừng lớn; một đầu buộc vào khúc gỗ còn một đầu buộc vào cổ voi. Nhưng khi voi cất bước thì tự nhiên họ thấy những xóm làng bên cạnh đất chuyển động ầm ầm, đồng thời nhà cửa phát hỏa tứ tung. Lần ấy ông thám đành bỏ dở công việc vì ông ta sợ con rồng bị đau giẫy giụa làm hại đến dân sự. Ngày nay có cái đặc biệt là nước giếng ấy không bao giờ cạn. Mỗi khi nước trong, người ta vẫn thấy có bóng khúc gỗ đen đen ở dưới.
      Để tâng công với hoàng đế, Cao Biền vẽ bản đồ từng kiểu đất một rồi viết thành sách ghi chú tinh tường đem dâng lên vua đường. Đại ý nói tất cả các mạch đất quý nhất của nước Nam, hắn đều trấn áp xong. Duy có kiểu đất ở chỗ trung độ (tức bây giờ là Hà Nội) thì hắn đã sai đắp một cái thành gọi là thành Đại La để chặn long mạch. Lễ trấn áp này hắn làm rất linh đình và công phu. Trên hòn núi ở xa xa về phí bắc thành Đại La, hắn cho dựng một cái đàn tràng. Trong thành Đại La, hắn sai nung một lúc tám vạn cái tháp bằng đất nhỏ. Nung xong, Biền huy động tám vạn quân vai vác giáo, mũi giáo xóc một cái tháp, đi từ Đại La tiến đến núi. Vừa đi họ vừa hô mấy tiếng "thống vận hoàng đế". Đến nơi đặt tháp xuống đỉnh núi rồi tám vạn quân ấy lại nhất tề kéo về Đại La. Cũng vì việc kỳ dị như thế nên núi ấy từ đó mang tên là núi Bát Vạn.
      Hoàng đế Trung Quốc đọc sách của Cao Biền lại càng khen ngợi hắn. Nhưng việc làm của Biền bị nhân dân ở nước Nam rất căm phẫn. Họ lập tâm chờ dịp giết chết cho bỏ ghét. Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào miền cứ như bây giờ là Ninh Bình. Ở đây người ta chuẩn bị cung nỏ chờ khi diều của hắn bay qua là là mặt đất, là cả bao nhiêu người nhất tề phóng tên. Diều bị gãy cánh rơi xuống núi, Biền bị trọng thương, sau đó phải dưa về Trung Quốc. Hòn núi ấy ngày nay còn mang tên là núi cánh diều, một trong ba ngọn núi ở gần trị sở Ninh Bình.
      Cao Bình về nước được ít lâu bị thủ hạ giết chết. Người ta theo lời dặn của hắn đem hài cốt chôn ở một cái gò cát ở mé biển miền Nam cứ như bây giờ thuộc tỉnh Phú Yên. Ở đó mặc dầu sóng gió thổi mạnh thế nào đi nữa, cát ở mả cũng không bay đi chỗ khác. Người đi thuyền qua đó vẫn gọi là mả Cao Biền.
      Ngày nay chúng ta còn có câu Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non là ý nóng nẩy vội vàng sẽ thiếu chu đáo, mà như thế thì sẽ thất bại.
 

                                     Cái Chén Sơn Son
Ngày xưa, lâu lắm rồi, có một người tiều phu nghèo khổ, sống trong một chiếc lều chỏng chơ bên chân núi. Hàng ngày, anh phải đốn củi để sống cho qua ngày.  Một buổi tối, có một người khách lạ tay chống gậy, thất thểu lê chân đến túp lều của anh và khẩn khoản nói:
      - Anh bỏ qua cho, tôi đành lòng phải nhờ anh việc này. Tôi đi đến đây thì bị lạc đường, không biết làm sao bây giờ. Anh cho tôi ngủ trọ một đêm có được không?
      Người tiều phu nhìn qua cũng biết là người khách đường đi đã xa lắm rồi:
      Thân mình đầy bụi, người mệt lử không đứng vững. Anh động lòng thương xót đáp lại:
      - Vâng, được, tôi biết ông đã mệt lắm. Nếu ông không nề đến chiếc lều rách nát này, xin ông cứ nghỉ lại đây.
      Người khách đường vui vẽ bước vào. Người tiều phu dốc hết gạo trong hũ đem nấu cơm đãi khách. Cơm ăn với đậu kho lạt, nhưng người khách vừa ăn, vừa tấm tắc khen ngon. Thoáng một lúc, người ấy đã ăn hết sạch. Người tiều phu phải tạm uống chút nước lã, nhưng vẫn giấu không cho khách biết. Sáng hôm sau, ông khách nói:
      - Tôi cám ơn anh nhiều lắm. Nhờ anh tôi tỉnh táo hẳn lại. Cảm ơn anh! Không bao giờ tôi quên được ơn này. Trênn sườn núi này có một chiếc mồ. Khi nào thấy vẫn bách điều gì, anh cứ đến chỗ hồ đó mà vỗ tay ba cái: Bốp! bốp! bốp! Mỗi lần làm như vậy anh sẽ được ăn uống thõa thuê. Anh chỉ việc để mâm bát lại mà thôi. Nói thật với anh, tôi là thần Cá Chép sống ở hồ đó.
      Nói xong, ông khách biến mất. Thế mới lạ chứ! Người tiều phu cấu vào má mình mấy cái mới tin rằng không phải mình chiêm bao. Anh nghĩ bụng: Cứ đến đó làm thử xem sao còn hơn ngồi mà phán đoán, và anh đi thẳng tới chiếc hồ.
      Nước hồ trong xanh, phản chiếu cả trời mây, cây cỏ ở trên bờ. Quang cảnh ở đây, cũng chẳng có gì lạ mắt. Chưa hẳn tin ở lời ông khách, cứ cho là ông ta giỡn mình, anh tiều phu liền vỗ tay ba cái thật kêu: Bốp, bốp, bốp!
      Ô, lạ chưa! trước mắt anh, nước hồ bỗng cuộn lên, rồi một chiếc bàn bống loáng và sang trọng nhô lên mặt nước, trên bàn có bài biện la liệt đủ các món sơn hào, hải vị. Chiếc bàn cứ lặng lẻ chuyển đến sát người tiều phu đứng trên bờ.
      - Đúng như vậy! Kỳ lạ thật! kỳ lạ thậ!
      Người tiều phu sướng qúa, nhảy lên vài lần rồi bê cả mâm cổ về nhà mà ăn. Ăn xong, anh lại xách mâm ra hồ mà trả đúng như lời dặn. Chiếc mâm lại từ từ chìm xuống đáy hồ.
      Từ đó, người ta đồn rằng người tiều phu sống tha hồ sung sướng chẳng khác gì ông vua. Cứ thấy đói bụng lúc nào, anh lại vỗ tay ba lần, thế là một bữa cơm thịnh soạn lại bày ra trước mặt. Thường ngày, bác tự bảo: " Mình ngốc quá, tội gì mà cứ phải làm quần quật không chịu nghỉ ngơi cho đỡ vất vả?". Vì vậy anh hết ăn lại nằm ngủ, ngày này sang ngày khác đến nổi thân hình anh béo phệ một cách ghê ghớm.
      Một lần, sau khi ngốn hết bữa cổ linh đình của chiếc hồ thần diệu, anh ngồi ngắm nghía một chiếc chén sơn son rồi bỗng thốt lên: " Chà, đẹp tuyệt!". Sao anh lại nghĩ bụng: "Giá mình có lấy một cái chén tuyệt đẹp thế này thì hay biết mấy! Thần Cá Chép dặn mình ăn xong phải trả lại tất cả thật đấy. Nhưng, lấy một cái chén này thì đã ra sao? Thôi, rồi thế nào đâu cũng vào đấy!".
      Anh lấy cái chén và giấu vào trong tráp. Xong, anh lại bày biện mọi thứ như cũ rồi trả lại mâm ăn cho Thần Cá Chép.
      Ngày hôm sau, khi thấy đói bụng, anh lại ra hồ vỗ liền ba cái. Nhưng trên mặt hồ vẫn không có gì nổi lên cả. Mặt nước vẫn phẳng lặng. "Bốp, bốp, bốp!" Anh lại vỗ tay mạnh hơn, nhưng vẫn không thấy tăm hơi cái mâm cổ.
      - Đồ khốn kiếp, hắn biết mình lấy cái chén thật rồi!
      Anh giận giữ dậm chân thình thịch, nhưng vẫn thấy im ắng như trước. Lần này anh cương quyết hơn: "Được rồi, đã lấy là lấy hẳn. Ta sẽ đem bán, nhất định được thối tiền!".
      Từ hôm đó, chiếc tráp trong nhà anh bỗng dưng cháy bùng lên, rồi cả căn nhà cũng ùn ụt cháy ra tro hết cả. Cả cái chén sơn son cũng cháy biến không còn một dấu vết. Người tiều phu ngồi than thở bên đóng tro tàn:
      - Trời ơi! mình thật ngu đần hết sức! Thế mới đáng kiếp!
=================
                              Ba Phần Gia Tài
     Xưa có một ông lái buôn tính tình hiền lành cẩn thận, trước khi nhắm mắt lìa đời, ông làm một chúc thư để lại phân chia gia tài cho ba đứa con ông.
      Gia tài của ông gồm có17 con trâu và 19 con heo. Theo chúc thư thì người con cả được 1/2, người con thứ được 1/3 và người con út được 1/9 đàn trâu. Còn heo thì con cả được 1/2 con, con thứ 1/4 và con út 1/5.
      Trong chúc thư có dặn hai điều: Thứ nhất không được bán trâu và heo để lấy tiền chia, thứ nhì không được giết hại súc vật, nghĩa là để nguyên vẹn vậy mà chia.
      Thật là chuyện rắc rối. Người con cả lên tiếng giành phần:
      - Nửa đàn trâu 17 con và đàn heo 19 con, toàn là số lẻ làm sao mà chia.
      Đến lượt người con thứ cũng càu nhàu:
      - Phần tôi thì 1/3 đàn trâu là 5 con với 2/3 và 1/4 đàn heo tức 4 con với 3/4. Như vậy phải giết trâu với heo mới chia được, mà cha thì cấm giết...
      Người con út cũng tỏ vẻ bực mình:
      - Phần tôi thì 1/9 đàn trâu và 1/5 đàn heo như thế cũng chẳng chia quái gì được, trừ phi xả thịt nó ra.
      Tuy gặp sự rắc rối như vậy, cả ba anh em không ai chịu nhân nhượng ai, triệt để giữ đúng các phần ăn trong chúc thư, không ai ưng chịu sửa đổi một khoảng nào.
      Ban đầu còn bàn bạc nhỏ nhẹ với nhau, thét rồi sanh ra cãi vã to tiếng với nhau. Cuối cùng người con Cả đề nghị:
      - Trong nhà phân xử không xong vậy cứ nhờ người ngoài phân xử vậy.
      Cả ba dắt tới nhà một ông đồ nho giỏi về xử lý.
      Lúc bấy giờ ông đồ đang ngồi xem sách chợt thấy ba anh em kéo tới biết có rắc rối về chuyện chia phần ăn nên bảo:
      - Ừ, nếu các anh đem việc này tới cửa công thì tốn kém rất nhiều, còn với tôi, chỉ lấy chút đỉnh công lao thôi. Vậy các anh định phần công lao của tôi bao nhiêu?
      Sao một hồi bàn tính, họ dành phần ông đồ ba con heo.
      Tảng sáng hôm sau, ông đồ dắt một con trâu và một con heo đến nhà ba anh em con người lái buôn, rồi thả hai con vật này nhập vào bầy trâu và heo. Xong rồi, ông gọi tất cả ba anh em đến hỏi:
      - Bây giờ trong chuồng có bao nhiêu con trâu vậy các chú?.
      Cả ba trả lời 18 con. Ông đồ hỏi:
      - Này chú Hai, phần của chú bao nhiêu?
      - Thưa một nửa đàn trâu tức là 9 con.
      Ông đồ bảo:
      - Vậy chú hãy vào dắt 9 con của chú đi.
      Người thứ hai mừng rỡ vào thấp thỏm sợ ông đồ biết về phần lợi của mình, đúng lẽ thì chỉ 8 con và một phần hai con chớ không được tron 9 con.
      - Quay sang chuồng heo, ông đồ hỏi tiếp:
      - Bây giờ có cả thảy bao nhiêu heo vậy chú?
      - Dạ 20 con.
      - Phần của chú Hai bao nhiêu?
      Người thứ Hai đáp:
      - Nửa đàn là 10 con.
      Ông đồ ra lệnh:
      Chú hãy dắt đủ 10 con nhưng trừ con của tôi lại.
      Người thứ hai lấy đủ phần của mình rồ lật đật đem trâu và heo về nhà, chỉ để lại cho ông một con heo phần công lao.
      Giờ đến lượt người con thứ ba:
      - Thưa cụ tôi được 1/3 vậy cụ chia cho.
      Ông đồ hỏi.
      - Một phần ba của đàn trâu 18 con là bao nhiêu vậy chú Ba?
      - Dạ 6 con.
      - Được rồi, chú mau vào chuồng dắt 6 con của chú ra, nhưng nhớ để con có dấu của tôi lại. À còn heo chú được mấy phần?
      - Thưa 1/4 tức là 5 con.
      - Vậy chú cứ bắt 5 con, nhớ để cho tôi một con heo phần công lao nhé.
      Người con thứ cũng như con trưởng lật đật đem phần ăn đi không cần bàn cãi gì nữa cả.
      Đến lượt người con út, ông đồ hỏi:
      - Này chú, chú được bao nhiêu phần trâu và heo.
      Người này đáp:
      - Dạ 1/9 đàn trâu và 1/5 đàn heo.
      Ông đồ tính toán xong liền bảo:
      - Chú hãy vào chuồng dắt hai con trâu và hai con heo, nhưng nhớ để tôi một con heo phần công lao.
      Người con út cả mừng vì đúng lẽ anh chỉ được 3 con và 4/5 thôi, thế mà được những 4 con thì có lợi vô cùng. Trong khi ấy ông đồ trở về nhà với 1 con trâu và 3 con heo, tất nhiên là ông cũng có lợi.
      Bạn đọc sẽ ngạc nhiên tự hỏi: trong ba phần gia tài, kẻ được chia đều hưởng quá số lợi của mình tưởng tượng, nên cả thảy đều mừng, vậy đâu là phần thiệt hại?
      Không có gì khó hiểu cả, người có lợi trong vụ này chính là ông đồ chớ không phải ba anh em nhà kia. Ông đem tới 1 trâu và 1 heo là cốt làm cho phần chia đúng vào các con số đã trù tính, nhưng ông đã khôn ngoan giữ lại 1 con trâu và 1 con heo của ông mang tới, thêm vào đó hai con heo phần công lao. Hai con heo này đã rút ngay trong ba phần gia tài, lẽ tất nhiên nếu ba anh em nhà không tranh chấp thì 2i con heo này không lọt ra ngoài vậy.

                      Chiếc Hũ Thần Diệu
     Ngày xưa có hai anh em nhà kia, người anh nhờ buôn bán nên giàu có, em làm nghề đốn củi nên chỉ đắp đủ qua ngày. Tết đến, người em túng thiếu không tiền làm cỗ cúng ông bà, mới sang nhà anh nài nỉ, người anh chỉ thí cho một giò lợn luộc rồi đuổi về.
      Người em mang chiếc giò lợn luộc đi ngang một cánh rừng, bỗng nghe tiếng rên rỉ thảm thương, liền tìm đến nơi thì thấy một lão tiều phu bị cây ngã đè qua chân nằm kêu la than khóc. Động mối từ tâm, người em khuân lấy cội cây bỏ đi nơi khác vào đỡ lão tiều phu dậy, định biếu chiếc giò lợn luộc cho ông đỡ lòng. Cảm lòng tốt của nguời em, lão tiều phu từ chối và bảo:
      - Ta muốn đáp lại tấm lòng tốt của ngươi, vậy ngươi hãy đem chiếc giò lợn này đến cái động đá đằng kia để gặp các sơn thần, nếu họ đòi đổi giò heo lấy ngọc vàng thì ngươi đừng chịu, phải xin đổi cho được cái hũ sành. Đó là cái hũ thần ước gì được nấy, nhưng đừng nên tham lam, chỉ ước đủ dùng thôi và cần nhất phải giúp đỡ những người nghèo khó, khi nào vừa đủ thì phải hô to: "Đủ rồi" thì tự nhiên miệng hũ đóng lại.
      Nghe lời dặn dò của lão tiều phu, người em tìm tới động đá, quả nhiên thấy rõ các vị sơn thần nhảy múa vui đùa. Lúc bấy giờ các vị sơn thần đánh hơi được mùi lợn quay nhìn lại thấy người em thập thò ngoài động đá liền gọi vào bảo đổi giò heo lấy vàng ngọc, người em nhất định không chịu, chỉ nhận đổi cái hũ sành. Rốt cuộc các sơn thần phải đem hũ sành đổi lấy giò heo.
      Bấy giờ người em sung sướng đem cái hũ sành về nhà khoe với vợ. Rồi vợ chồng ước gì được nấy, chẳng mấy chốc vợ chồng người em trở nên giàu sang sung sướng, họ ước thêm vàng bạc rồi đem chia chác cho những người nghèo khó trong làng. Tiếng đồn người em có cái hũ thần loan ra khắp nơi, người anh liền tìm đến tận nhà để xem hư thật, quả đúng như lời thiên hạ đồn. Người anh động lòng tham bảo em đổi cái hũ sành lấy cả sản nghiệp của mình. Biết rằng người anh tham lam keo cú, nếu được cái hũ thần sẽ ham sự giàu sang quên điều nhân nghĩa, nên người em từ chối không chịu đổi chác với anh.
      Tuy nhiên, người anh vẫn không bỏ qua giấc mộng làm chủ cái hũ sành, mới mưu mẹo, nhờ đứa ở của người em đánh cấp cái hũ thần rồi vợ chồng người anh trốn lên thuyền đi ra miền biển.
      Giữa lúc đó người anh nghe các nơi thiếu muối nếu có nhiều muối đem bán chắc được nhiều tiền, nên đem hũ thần ra ước, muối từ trong hũ tràn ra như nước chảy, chẳng mấy chốc mà đầy cả thuyền. Ngặt vì người anh chỉ biết có lời ước được muối, còn lời ước cho nắp hũ đống lại thì không biết, nên muối chảy hoài như nước tràn đê vỡ làm ngập cả thuyền rồi chìm luôn. Cả hai vợ chồng người anh đều chết đắm giữa biển khơi.
      Vì không có ai biết ước nắp hũ thần đống lại, thành ra muối tuôn chảy khắp đai dương hòa tan trong nước, làm nước biển mặn như ngày nay.

           Cái Sọt
     Ngày xửa ngày xưa ở một làng kia có một gia đình nghèo khó. Nhà có bốn người: hai vợ chồng, đứa con trai nhỏ tuổi và ông bố chồng đã già. Năm tháng ròng rã, ông bố phải làm lụng vất vả, giờ đây đã quá già yếu không còn cất nhắc được việc gì. Vì vậy ông phải hoàn toàn sống dựa vào con trai và nàng dâu. Họ coi ông là một gánh nặng.
      Ngày tháng trôi qua, ông già càng ngày càng trở thành mối lo ngại cho họ. Ông cụ cần được chăm sóc nhiều. Nhưng cả nàng dâu lẫn con trai đều không đỡ đần ông gì cả. Ông phải ăn những thức ăn thừa và mặt bất cứ thứ quần áo cũ nào. Ông luôn luôn bị đói và rét. Lắm khi đứa cháu trai quá xót xa ông nội, đã sẻ phần thức ăn riêng của nó cho ông. Nhưng mỗi khi trông thấy thế bố mẹ nó lại rầy la và cấm nó không được phung phí thức ăn ngon.
      Ông già rất đau khổ về cách cư xử của hai vợ chồng đứa con, ông thường than phiền oán thán. Nhưng đáng lẽ phải tìm cách an ủi ông, hai vợ chồng nhà ấy vẫn thường lập lại cho nhau nghe câu phương ngôn cổ "Bò già sa vó, ông bọ sẩy mồm".
      Sự việc này ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Ông già càng làm om sòm bao nhiêu thì nàng dâu với con trai ông càng khó chịu bấy nhiêu. Cuối cùng, họ không thể chịu đựng nổi ông già nữa. Chúng bí mật bàn mưu tính kế tống khứ ông già đi. Chúng định mang ông đến một nơi thật xa, và bỏ ông ở đó. Người chồng cho biết hắn sẽ ra chợ mua một cái sọt bằng tre cứng cáp đơn sơ để bỏ ông vào đó mang đi.
      - Ta sẽ mang ông lão đến một nơi thật xa, khiến ông lão không còn lần ra đường về. Ta sẽ bỏ ông lão dưới gốc cây sát lề đường đi. Thế rồi có thể có người cảm thấy xót thương mà đưa ông lão về nuôi. - Người chồng bàn tính.
      - Nhưng còn đối với bà con hàng xóm thì sao?
      - Người vợ nói.
      - Chẳng bao lâu họ sẽ biết ông cụ không còn ở đây nữa. Chúng ta phải ăn nói với họ như thế nào khi họ hỏi?
      - Thì cứ nói rằng ông cụ đòi đến vùng đất thánh, ở đấy ông cụ có thể sống yên ổn cho đến lúc chết.
      - Người chồng trả lời.
      Thế là họ sắp định âm mưu. Nhưng họ không biết rằng đứa con nghe lỏm được câu chuyện họ bàn tính với nhau. Ngay khi cha nó vứa đi chợ mua sọt nó hỏi mẹ:
      - Mẹ ơi! Tại sao bố lại vứt bỏ ông đi?
      - Không! không!
      - Mẹ nó vội vàng trả lời.
      - Chúng ta không định vứt bỏ ông đâu! Dĩ nhiên là chúng ta không làm thế. Con xem, ở đây chẳng có ai chăm sóc ông được chu đáo, bởi vì cả cha con và mẹ đều tất bật làm lụng suốt ngày. Do đó cha con định đưa ông nội đến một nơi ông được chăm nom tử tế hơn thôi.
      - Chỗ ấy là ở đâu vậy mẹ? Đứa con hỏi.
      - Ồ, xa lắm, xa lắm. Đó là một nơi con chẳng thể nào biết được.
      - Thế ai sẽ đến chăm sóc ông?
      - Con không phải lo. Có rất nhiều người hảo tâm sẽ chăm sóc ông. Người mẹ nói để đứa con yên tâm.
      Chiều tà, người chồng về mang theo một chiếc sọt lớn. Không muốn cho hàng xóm biết chuyện mình làm, anh ta đợi đến tận đêm, khi trời tối mịt mới đặt ông bố vào cái sọt.
      - Con định làm gì thế này? Ông già hoảng hốt hỏi con. Con đặt ta vào trong cái sọt này mang đi đâu?
      - Thưa bố, bố biết đấy, hai vợ chồng nhà con chẳng thể chăm nom bố đượcnữa. Vì vậy con định đưa bố lên miền đất thánh, ở đấy bố sẽ được mọi người đối xử tốt hơn. Người con đáp.
      Nhưng ông già không bị mắc lừa. Ông hiểu ngay vợ chồng nhà ấy định làm gì ông.
      - Đồ bất hiếu!
      - Ông quát: Thử nhẩm xem, bao nhiêu năm qua tao nuôi màcho đến ngày khôn lớn. Và bây giờ thì mày trả nghĩa cho bố mày như thế đấy!
      Ông bắt đầu hét to, chửi mắng con trai và nàng dâu.
      Con trai nổi giận. Anh ta giật một cái, nâng phốc cái sọt lên lưng, xăm xăm đi ra khỏ nhà.
      Đứa cháu nhỏ im lặng theo dõi tất cả mọi việc xảy ra. Vừa hay khi cha nó sắp khuất dạng trong đêm tối, nó gọi to bảo cha nó:
      - Bố ơi! Bố ơi! Khi nào bố đem vứt ông xong, bố nhớ giữ cái sọt cẩn thận và mang nó về cẩn thận nhé!
      Bối rối trước câu nói của con, anh ta dừng bước, ngoảnh lại hỏi:
      - Để làm gì hả con?
      Đứa bé ngây thơ trả lời:
      - Nhà ta còn cần đến cái sọt to ấy để khi nào bố già con mang vứt bố đi!
      Nghe đứa bé nói, chân anh ta đâm loạng choạng. Không biết làm sao, anh ta chẳng thể bước thêm một bước nào nữa. Thế là anh ta quay lại và đưa người bố già trở về nhà.


                          Chàng Lía
     Ngày xưa ở một làng nọ có vợ chồng người làm vườn nghèo khổ, sinh được một đứa con trai đặt tên là Lía. Cha qua đời, Lía còn nhỏ tuổi chịu cảnh mồ côi cha. Thường ngày Lía theo mẹ bắt ốc hái rau để sống. Lúc lên mười tuổi, mẹ Lía đem Lía đợ cho một người nhà giàu trong vùng để chăn trâu.
      Thấy mẹ ăn uống cực khổ, Lía mới trộm gà của chủ đem về làm thịt cho mẹ ăn. Mẹ Lía biết chuyện rầy la dữ lắm, Lía mới thôi không ăn trộm gà nữa.
      Thường ngày, Lía đuổi trâu ra đồng để mặc trâu đi đâu thì đi, còn Lía tụ tập vài ba đứa trẻ hoang, hết bày việc đáng nhau bằng gậy gộc, lại rủ nhau đi trộm bầu trộm bí, khoai lang, củ sắn.
      Một lần nọ, thằng Lía để trâu lạc vào vườn của nhà phú hộ làng bên cạnh. Ông phú hộ truyền bắt trâu cột lại để bắt đền kẻ để trâu đến phá vườn ông.
      Bị mất trâu, thằng Lía không dám về nhà, nó rủ thằng Hung và thằng Hoang đi tìm. Tình cờ nó nhìn được con trâu trong nhà ông phú hộ. Nó liền bàn kế hoạch với hai thằng bạn của nó, đốt nhà ông phú hộ, để mọi người lo cứu chữa, bấy giờ nó lẽn vào bắt trâu đem về cho chủ.
      Chủ hay được, sợ liên lụy, nên đuổi thằng Lía đi. Nó trở về sống với mẹ già, và xin với mẹ nó cho nó đi học. Mẹ nó phải van lạy ông thầy để cho nó được học. Nó rất tối dạ, lại hay sinh sự đánh nhau, nên thầy học không dám dạy nó nữa. Thằng Lía liền hợp với thằng Hung, thằng Hoang và vài đức trẻ ngỗ nghịch đi bắt trộm gia súc của người giàu trong làng, rồi đem về chia cho người nghèo. Hành động của thằng Lía càng ngày càng lộng, người trong làng mới hiệp nhau để đấu cáo với quan trên. Làng lính liền tìm bắt Lía. Nó hoảng sợ trốn lên tỉnh, được một viên đột tâm phúc của quan tỉnh thâu nhận là thuộc hạ. Lía bèn học tập côn quyền võ nghệ. Càng lớn lên, Lía cang có sức mạnh hơn người. Tánh nghĩa hiệp nên gặp chuyện bất bình là xông vào can thiệp, vì vậy giữa Lía và bọn cường hào ác bá thường có những trận gây gổ đánh nhau.
      Năm đó có mở khoa thi, những ai giỏi luồn cúi hoặc có tiền đút lót thì được đỗ, bằng không thì bị đánh hỏng dù văn hay chữ tốt. Tuy học hành dở dang, Lía cũng vào thi, nhân thấy bọn tham quan bắt nạt, ngược đãi kẻ nghèo nàn, Lía vô cùng bất bình. Thừa đêm tối, cùng đám bạn lẻn vào nhà viên chủ khảo giết chết người này rồi trốn vào rừng.
      Quan quân mở cuộc truy nã ráo riết. Lía chiêu tập đám người vô nghề nghiệp lẩn lút trong rừng chống lại quan quân. Nhiều trận hai bên giáp chiến giữ dội, quan quân đại bại phải rút lui. Lía đem bộ hạ tràn ra làng xóm chiếm đoạt tài sản của người giàu đem cho người nghèo. Thanh thế càng ngày càng to. Triều đình phải treo giải thưởng cho ai bắt sống hoặc giết chết được thằng Lía. Nhưng Lía giỏi lẩn trốn, thành ra quan quân phải bắt mẹ của Lía đem ra thị oai. Nếu thằng Lía không chịu ra nạp mình thì mẹ nó bị giết. Động lòng hiếu để, thằng Lía phải chịu nạp mình cho mẹ được tha. Nhưng chẳng bao lâu Lía trốn thoát.
      Bấy giờ, Lía phải trốn tránh rất là cực khổ, đói khát nhiều ngày. Bất đắc dĩ, Lía phải cải trang sửa dạng trốn vào trong thành để kiếm sống. Quan quân dò xét biết liền bao vây lấy thành mở cuộc lục xét khắp nơi. Lía trốn vào một nhà ông lão hiền lành. Lúc này, Lía nghe tin mẹ mình bị bệnh mà chết, các bộ hạ lớp bị bắt, lớp bị giết thì đau lòng, không thiết gì sống nữa. Một hôm, Lía nói với ông lão rằng: "Chưa bao giờ tôi bị thất bại chua cay như lần này. Có lẽ trời đã hại tôi. Vậy ông hãy chặt lấy đầu tôi đem nạp cho quan trên để lãnh thưởng, chỉ còn cách đó để tôi đền đáp ơn ông".
      Ông lão không bằng lòng. Lía tự trói mình để cho ông đem nạp quan trên. Thế rồi Liá bị đem ra trảm huyết.
      Đến sau có câu hát cảm thương Lía như vầy.
      Chiều chiều én liệng Truông Mây,
      Cảm thương chú Lía bị vây trong thành.
========================
                 Bụng Làm Dạ Chịu
     Ngày xưa, có một anh chàng vô công rồi nghề, ngày ngày chỉ biết ăn bám vợ và khoác lác. Người vợ rất lấy làm bực mình vì phải nai lưng ra làm nuôi chồng và ba đứa con. Một hôm người vợ bắt anh ta phải đi học một nghề gì để nuôi thân vì mình không cán đáng nổi nữa. Anh chàng lang thang suốt buổi, hết đứng bụi này lại ngồi nhà kia, chả học nghề ngỗng gì cả, cho đến xế trưa lại về.

      Trước khi vào nhà, hắn đứng nấp sau vách có ý nghe ngóng xem vợ mình có nói xấu gì mình chăng. Vừa khi người vợ đi chợ về mua được năm tấm bánh gói, chia cho ba đứa con mỗi đứa một cái. Còn lại hai cái mẹ bảo con đưa vào buồng cất trong vại gạo cho cha. Nghe thấy thế, anh ta rất thích, chờ một lúc rất lâu mới giả bộ đi từ phía cổng bước vào nhà. Vợ hỏi:

      - Đã tìm được nghề gì chưa?
      - Đã: Hắn đáp.
      - Nghề gì mà học nhanh thế?
      - Tao đi dọc đường gặp một ông thầy hít. Ông ấy dạy cho tao nghề bói bằng cách dùng lỗ mũi hít, hít mấy cái là tìm ra ngay. Nào có cái gì cần tìm để tao làm thử cho mà xem?
      - Vậy thì, người vợ tiếp ngay. Tôi có mua cho hai cái bánh còn cất đi một nơi, cứ hít cho ra mà ăn, nhưng không tìm được thì nhịn vậy!

      Thế là anh chàng ngước mũi lên, giả bộ hít mấy cái, rồi nói:
      - Đúng rồi nó ở trong vại gạo. Rồi hắn chạy vào lấy bánh ra ăn trước con mắt kinh phục của vợ con.

      Người vợ tưởng thật, mừng quá, vội chạy đi rêu rao với xóm giềng rằng chồng mình mới học được nghề thầy hít, thử đoán một việc thấy hay như thần. Vậy từ nay ai có mất cái gì cứ đến nhờ anh ấy tìm hộ. Hôm ấy, trong xóm có bà mất ổ lợn con, kiếm khắp mọi nơi không thấy. Nghe nói thế, bà ta vội chạy đến khẩn khoản nhờ tìm. Thật là may cho anh chàng, vì lúc đứng ở một bụi tre dọc đường, hắn đã trông thấy bầy lợn con chạy lạc ra đó. Anh ta mừng quá, bảo bà già:
      - Nếu tôi kiếm được thì bà sẽ cho tôi gì nào?
      Bà ta hứa cho hai con lợn con. Anh ta cũng giả vờ hít hít mấy cái rồi dắt bà ấy đến chỗ có lợn. Quả nhiên họ tìm ra được ngay và anh ta được chia cho hai con lợn như lời đã hứa.
      Vợ thấy chồng nhỉ học một nghề giản dị mà làm ra của dễ dàng thì sung sướng quá, vội chạy về khoe với cha mẹ đẻ. Người cha nghe nói con rể học được phép lạ cũng có ý hâm mộ. Ông ta nói riêng với vợ:
      - Bà cứ bảo gọi rể sang đây. Nếu nó chỉ đúng món tiền chôn ở gốc táo sau vườn thì cho nó một nửa.
      Ông ta không ngờ rằng chàng rể của ông đã lén theo vợ sang đây từ lúc nãy và đứng nấp ở một góc nhà. Nghe cha vợ bảo thế, anh ta lén chạy một mạch về nhà rồi giả tìm cách nằm ngủ. Khi vợ và mẹ vợ về, phải thúc mãi hắn mới chịu dậy. Thế là anh chàng theo sang nhà ông nhạc, chỉ đúng chỗ chôn của, và sau đó quả được một nữa số tiền chôn.

      Từ đó tiếng đồn về thầy hít lan đi rất nhanh. Cũng vào thời gian ấy, trong hoàng cung bỗng xảy ra một vụ trộm lớn. Nhà vua mất trộm con rùa vàng và một con rùa bạc là hai món bảo vật mà vua Trung Quốc tặng. Trong cung rối rít cả lên. Chả có cách gì tìm ra thủ phạm cả. Vừa nghe tiếng đồn có thầy hít đại tài, vua vội sai quân đi mời về cho bằng được.
      Khi thấy sứ giả đến nhà triệu mình thì anh chàng vô cùng hoảng hốt. Trót đánh lừa mọi người, hắn không còn biết than thở với ai cả. Nằm trong cán dọc đường về đô, anh ta nghĩ bụng:
      - Thôi phen này thì bay đầu đến nơi rồi.
      Anh chàng buồn quá, tưởng tượng những nhục hình đang chờ mình ở cung vua mà rụng rời chân tay. Vì thế khi qua sông, anh ta nhảy đại xuống nước, nghĩ rằng thà chết ở đây còn hơn bị kìm kẹp khổ thân. Hai người lính khiêng cáng sợ rằng nếu hắn chết thì trách nhiệm sẽ đổ lên đầu mình, mới chia nhau lặn xuống nước tìm và cuối cùng cũng lôi được anh chàng lên bờ. Khi tỉnh lại, hắn ta rất thất vọng, nhưng cũng làm bộ giận mắng hai người dó:
      - Tao xuống để hỏi vua Thủy Tề xem ai là thủ phạm chứ can gì mà chúng mày lại hốt hoảng lên thế.
      Nhưng trong bụng anh ta thì nghĩ:
      - Thế là muốn thoát cũng không thoát nổi. Biết tính làm sao bây giờ.
      Không ngờ hai người khiêng cán mà vua sai đi: một người tên là Bụng, một người tên là Dạ. Hai đứa đã âm mưu ăn trộm hai con rùa của nhà vua. Hiện tang vật còn đang giấu ở trên máng chưa đưa đi thoát được. Nay bọn họ nghe thầy hít lẩm bẩm như thế, tưởng là thầy đã hỏi được vua Thủy Tề biết rõ cơ sự rồi, bèn hạ cáng xuống và hai tay lạy thầy như tế sao. Bọn họ thú tội cho thầy nghe rồi cuối cùng xin thầy làm ơn giấu đi cho, nếu không thì khó mà thoát án tử hình.

      Nghe đoạn, thầy như mở cờ trong bụng, vội hứa để cho bọn họ an tâm. Khi gặp vua, anh chàng lại giở phép hít của mình và nhiên tìm được hai báu vật còn giấu ở trên máng nhà. Vua thán phục tài năng của anh chàng, tặng thưởng rất hậu, lại ban cho tước lớn.

      Anh ta về nhà chưa được bao lâu thì bỗng hôm được sứ Trung Quốc đến tận nhà mời sang tìm giúp cho hoàng đế. Số là trong cung cấm của hoàng đế Trung Quốc vừa xảy ra một mẻ trộm rất lớn. Nhiều món bảo vật quí giá nhất trần đời đều bị bọn người táo gan lấy đi mất. Nhiều thầy bói được vời đến cung, nhưng chả nên tích sự gì cả. Nay nghe nói có thầy hít Việt Nam đại tài nên phái sứ giả qua mời sang tìm hộ. Nếu tìm được bảo vật, hoàng đế sẽ ban thưởng rất hậu.

      Anh chàng lần này lại lo sốt vó, có thể nói hơn cả mấy lần trước. Vừa qua một khúc sông, anh ta đã nhảy xuống nước định tử vẫn như lần trước. Không ngờ người ta lại cứu được lên. Nhưng lần này không hiểu anh ta nhảy như thế nào mà khi lên sứt mất một bên mũi. Hồi tỉnh lại, anh chàng chỉ cái mũi sứt nói với sứ giả Trung Quốc rằng:
      - Tôi nhờ cái mũi này mà mới làm ăn được. Nay con cá nóc đã làm hỏng sự màu nhiệm của tôi rồi, còn gì sang nữa.
      Sứ giả không biết nói thế nào cả đành để anh ta trở về nhà.
ooooo0ooooo
            Ngốc Được Kiện
     Có một anh chàng nọ quá đỗi thật thà nên mọi người gọi anh là thằng Ngốc. Chàng Ngốc khỏe mạnh, yêu đời và lao động giỏi. Anh chàng nghèo khổ, không cửa không nhà phải đi ở muớn cho một tên trọc phú. Anh làm lụng quần quật suốt ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác. Thấy anh này khỏe mạnh, dễ sai bảo nên sau năm năm nghe anh ta đòi tiền công, hắn dỗ dành anh làm thêm cho hắn năm năm nữa. Lại năm năm nữa trôi qua. Thấy anh đòi tiền công để về, lão trọc phú lại dỗ:
      - Mày ở với tao đã lâu thành ra thân tình trong nhà nên tao không nỡ chia tay ngay với mày. Thôi mày ở với tao thêm năm năm nữa rồi tao đưa tiền công cả mười lăm năm ba nén vàng. Lúc đó thì mày tha hồ giàu có.
      Nghe bùi tai, chàng Ngốc lại dồn hết sức làm việc quần quật cho lão trọc phú thêm năm năm nữa. Lần này hết hạn anh một mực đòi thôi việc. Dỗ mãi cũng không được, lão trọc phú bèn mang vàng ra trả. Chàng Ngốc cầm vàng hí hứng đi, mà đâu có biết lão trọc phú đưa cho chàng toàn vàng giả. Có vàng trong tay chàng Ngốc dự định đi ngao du thiên hạ cho thõa lòng mong ước được biết đó biết đây sau bao nhiêu năm lao động nhọc nhằn. Đi được một hồi anh ghé vào nhà một người thợ bạc. Người thợ bạc hỏi cho biết anh là ai và đi đâu, thì chàng Ngốc kể chuyện mình ra sao, được trả công như thế nào. Nhìn mấy nén vàng anh ta khoe, người thợ bạc nhìn là biết vàng giả, nhưng thấy anh chàng này ngốc nên định bụng lừa anh, hắn bảo:

      - Ở chốn thành đô chỉ có nhà quyền quí mới xài được, chớ dân thường thì khó lắm, tốt hơn anh nên đổi ra bạc dễ tiêu lắm. Sẵn đây tôi có mấy nén bạc anh thích thì tôi đổi hộ cho, cứ một vàng ăn hai bạc.

      Nghe có lý chàng Ngốc khẩn khoản xin đổi hộ. Không ngờ lão thợ bạc lại đưa cho sáu thỏi chì giả bạc. Chàng Ngốc cầm lấy cảm ơn rối rít và lại lên đường.

      Đến một nơi khác trên đường tới kinh đô anh chàng gặp một thợ giày. Mãi nói chuyện vui miệng với người đó anh kể là mình có sáu thỏi bạc. Hắn biết là bạc giả song đang cần chì nên gả đổi lấy một nghìn tờ giấy, hắn chỉ vào thứ lụa giả của mình và bảo:

      - Đây là thứ "lụa đinh kiến" quý lắm, anh nên đem tới kinh đô bán, cứ mỗi vuông lấy một quan tiền thì tha hồ mà tiêu.

      Nghe bìu tai chàng Ngốc đồng ý ngay. Khi ngang qua trường học thấy một người học trò đang chơi chong chóng bằng giấy xanh mà cả đời anh chưa thấy bao giờ nên thích lắm bèn tới xem và hỏi:
      - Cái gì thế này?
      Cậu học trò láu lỉnh nói đùa:

      - Đây là cái "thiên địa vận" dùng nó có thể biết được việc trời đất, mọi việc thế gian đều tỏ tường, nó quý lắm vì điều gì cũng đoán được trước.

      Chàng Ngốc nghe vậy bèn gạ đổi lấy một nghìn vuông "lụa đinh kiến" của mình. Cậu học trò tất nhiên là đồng ý luôn.

      Với thiên địa vận trong tay, chàng Ngốc nghĩ đã đến lúc được mọi người sẽ kính phục hết nhẽ. Qua một cánh đồng rộng chàng Ngốc thấy đám trẻ chăn trâu đang chơi một con niềng niễng lớn có đôi cánh xanh đỏ rất đẹp. Tò mò anh lại xem. Bọn chúng không muốn cho anh xem nên chúng nói dóc cho anh hốt hoảng.

      - Anh tránh ra đi, đây là "ngọc lưu ly" quý hiếm lắm. Đeo nó vào thì hè mát, đông ấm, đến đức vua cũng chưa chắc đã có.

      Chàng Ngốc nghe vậy nghĩ là không ngờ trên đời lại có của quý đến thế, quý tới mức đến đức vua cũng chưa có. Anh chàng bèn đem "thiên địa vận" của mình ra gạ đổi, lũ chăn trâu thấy chong chóng đẹp nên bằng lòng đổi. Chúng bỏ con niềng niễng vào túi còn thắt miệng lại dặn chàng Ngốc:

      - Lúc nào về đến nhà thì mở xem. Không thì ngọc bay mất đấy.

      Được viên ngọc quý rồi chàng Ngốc định bụng vào triều dâng vua để được ngắm cảnh vương triều. Nhưng tới cửa ngọ môn thì chàng ta bị lính gác chận lại. Chàng Ngốc than vãn:

      - Tôi đi ở thuê, làm mướn những mười lăm năm trời vất vả mới được ba nén vàng, rồi đổi lấy sáu thỏi bạc, đến một ngàn vuông "lụa đinh kiến", đến cái "thiên địa vận", cuối cùng "viên ngọc lưu ly", tôi định dâng vua viên ngọc quý đó, vậy cớ sao không cho tôi vào.

      Lúc đó có một gian thần đi ngang qua nghe chàng Ngốc nói có hột ngọc lưu ly hắn liền nổi lòng tham bèn nhận lời dẫn chàng Ngốc vào bái kiến, hắn bảo anh cứ tạm thời chờ ở cửa. Cầm được cái túi, tên quan thấy có cái gì đó tròn tròn ở trong thì khấp khởi mừng lắm. Hắn bước qua ngưỡng cửa hoàng cung bèn giở ra xem thực hư như thế nào để tìm cách chiếm đoạt. Ai dè mở túi ra nó bay vụt đi mất.

      Chàng Ngốc thấy vậy túm lấy tên quan bắt đền. Anh giơ tay đánh trống ở cửa hoàng cung vang lên. Bọn lính kéo anh ra cửa đánh. Chàng khóc ầm ĩ. Thấy động, vua sai người ra dẫn chàng Ngốc vào hỏi sự tình. Ngốc tâu:

      - Muôn tâu bệ hạ, tôi đi ở mười lăm năm được ba nén vàng, rồi sáu nén bạc, rồi một ngàn vuông "lụa đinh kiến", rồi cái "thiên địa vận" mới được hòn "ngọc lưu ly" để đem vào dâng bệ hạ, thế mà cái ông quan kia mở túi làm viên ngọc bay mất. Xin ngài thương rủ lòng thương xử cho con với.

      Tên gian thần thì ra sức chối cãi, song nhà vua vẫn phán:

      - Tên dân này đem hòn ngọc lạ dâng ta. Đó là ý tốt. Để mua viên ngọc đó hắn tốn bao nhiêu công sức và tiền của, vậy kẻ làm mất viên ngọc không chỉ có tội với ta, mà còn phải bồi thường cho người có ngọc đủ số chi phí để có viên ngọc quý đó.

      Đoạn vua quay sang nói với chàng Ngốc:

      - Trẫm ban cho ngươi một chức quan nhỏ để thưởng công cho lòng trung hiếu với trẫm.

      Chàng Ngốc sướng đến run người, chàng nhận đủ số tiền bồi thường và vui vẽ đi nhận chức quan mà vua đã ban cho chàng.
==========
    Anh Chàng Rể Khờ

     Xưa kia có anh trai tráng nọ quá khờ khạo, vì nhà túng bấn nên anh ta sẵn sàng ở rể, giúp việc cho gia đình bên vợ.

      Anh ta than phiền với bà mai dong:
      - Khó quá. Về nhà cha vợ, tôi phải xử sự ra sao đây? Không khéo lại mất vợ.

      Bà mai dong đáp:
      - Dễ quá. Mọi việc đều xong xuôi. Anh hãy về giúp đỡ gia đình bên vợ, trông coi mọi việc.
      - Nghĩa là làm sao?
      - Hễ thấy cha vợ làm bất cứ công việc gì dù nặng nhẹ, anh phải ra sức làm y như vậy để giúp đỡ.
      Chàng rể vô cùng mừng rỡ:
     - Vậy thì dễ quá. Tôi xin tuân theo lời dạy.
      Hôm nọ, sau khi ăn cơm xong, người cha vợ xách búa ra vườn đốn cây. Chàng rễ cũng lật đật xách búa đi theo.

      Đến vườn, cha vợ huơ búa chặt vào cây.
      Chàng rể sực nhớ lời bà mai dong, liền chạy đến bên cạnh cha vợ mà thưa:
      - Để con đốn cây này giúp cha.
      Người cha vô cùng mừng rỡ, bỏ gốc cây ấy qua đốn cây khác ở kế bên.
      Nhưng chàng rễ lại ngây ngô chạy đến thưa:
      - Để con đốn cây này.

      Người cha liền qua gốc cây khác, chàng rể vẫn tiếp tục xách búa đến chàng ràng. Rốt cuộc cả hai, cha vợ và chàng rể chẳng đốn xong cây nào cả.

      Thế là người cha vợ tức giận, xách búa ra đi phía xa hơn. Ngạc nhiên làm sao, chàng rể lại đi theo bén gót. Người cha vợ sinh nghi:
      - Hay là nó nổi cơn điên rồi? Rủi bề gì, nó dám vác búa chém mình.

      Thế là người cha vợ chạy một mạch. Chàng rể lại chạy theo, chiếc khăn vấn đầu của người cha bị tuột xuống đất. Người cha vợ càng hoảng sợ, té sấp rồi lồm cồm ngồi dậy, phía sau, chàng rể lại giả bộ té.

      Về đến nhà, người cha vợ bèn đấm vào vai vợ mình mà báo nguy:

      - Má bầy trẻ ơi! Thằng rể nhà mình nó phát điên rồi. Chạy nhanh, kẻo nó chém.

      Ngờ đâu, chàng rể cũng bắt chước cha vợ đấm vào vai của bà mẹ vợ mình một đấm đau điếng.
      Cha vợ và mẹ vợ hoảng hốt chạy ra khỏi nhà loay hoay bên gốc cây, nhưng chàng rể... hăng máu nọ vẫn bắt chước đến gốc cây. Rốt cuộc hai ông bà té nhào xuống mương, la inh ỏi, kêu cứu với chòm xóm.
      Chàng rể lại nhảy xuống mương, la inh ỏi theo.

      Hàng xóm chạy lại, bắt chàng rể để hạch hỏi duyên cớ. Bấy giờ ai nấy mới hiểu: anh ta chẳng có ác ý gì cả mà trái lại chỉ muốn giúp đỡ cha mẹ vợ... theo lời bà mai dong.
©©©©©©©

              Chiếc Áo Tàng Hình
     Ngày xưa ở vùng Cao Bằng có một chàng trẻ tuổi, nay đây mai đó làm nghề chài lưới, tên là Triều. Gia sản của anh không có gì ngoài bộ đồ nghề làm ăn. Nhưng tính anh vốn hay thương người. Mỗi lần đánh được nhiều cá, anh thường đổi lấy gạo đem chu cấp cho những người túng thiếu mà anh gặp. Vì vậy, người nghèo khổ trong vùng, ai cũng mến anh.

      Ở Cao Bằng một thời gian,Triều lại dời sang đánh cá ở vúng Thái Nguyên. Ở đây, anh lại cứu giúp mọi người không tiếc sức. Một hôm, anh không đánh được mẹ cái nào. Nhưng lúc về dọc đường, anh bỗng thấy một ông lão ăn mày trần truồng đang nằm run rẫy dưới gốc cây. Động lòng thương, anh cởi ngay chiếc áo đang mặc đắp vào người ông cụ.

      Bẵng đi một dạo, một hôm anh đang buông chài giữa sông, bỗng nghe trên núi cao có tiếng đàn văng vẳng. Anh dừng lại nghe một cách say xưa. Qua ngày hôm sau, anh lại được nghe tiếng đàn trên núi như hôm qua. Hôm sau nữa, cũng từ trên ngọn núi cũ, tiếng đàn quen thuộc lại bay đến tai anh. Lấy làm lạ, anh vội thu xếp đồ nghề của mình, rồi tìm đường trèo lên núi, quyết tìm cho ra người gãy đàn. Lần theo tiếng đàn, anh vạch cỏ rẽ lau tiến bước. Cuối cùng, đến một bãi rộng, anh thấy một cụ già đang ngồi trên phiến đá. Ông cụ mê mãi gãy đàn không biết có người tới gần. Triều nhận ra khuôn mặt cụ già này rất giống với ông cụ nằm ở gốc cây hôm nọ. Chờ cho bản đàn dứt hẳn, anh đến trước mặt hỏi:

      - Thưa cụ, cụ là ai mà ngồi đánh đàn ở đây?

      Ông cụ ngước mắt nhìn anh một cách âu yếm, rồi chỉ vào một phiến đá trước mặt, bảo:

      - Ta ngồi đợi con đây! Con trèo núi có mệt lắm không? Con hãy ngồi xuống đây nghỉ một tí.

      Triều vừa đỡ chén nước ở tay ông cụ, đã nghe ông cụ hỏi:

      - Con có nhớ ta không?

      - Có.

      Triều đáp ngay: Cụ có phải là người ngồi ở góc cây đa đầu làng hôm nọ không?

      - Đúng, ông cụ trả lời.

      - Hôm nọ, con đành chịu mình trần để nhường áo cho ta. Tấm lòng này thật là hiếm có. Nay ta muốn đền cho con một chiếc áo khác.

      Nói xong, ông cụ cởi chiếc áo đang mặc choàng vào mình Triều rồi biến mất.

      Từ ngày được áo của Tiên cho, Triều mới biết đấy không phải là một chiếc áo thường mà là một báu vật, có phép làm cho người ta tàng hình. Mỗi lần mặc áo, không một ai nhận ra có anh ở trước mặt. Triều mừng quá, từ đấy anh đi chu du khắp nơi. Anh thường mặc áo rồi tìm đến nhà bọn giàu có, đường hoàng đi vào tận buồng của chúng, lấy tiền gạo ra chia cho những người nghèo. Anh kín đáo trị tội những kẻ bất lương, bạc ác. Có những người vì quá cơ cực đang nằm lả bên vệ đường mà thở than thì bỗng thấy có những quan tiền ở đâu bay đến trước mặt. Có những tên quan đang nọc người ra giữa công đường mà đánh thì chính hắn bỗng bị quất vào lưng đau quằn lên, nhưng ngoảnh lại vẫn không hề tìm thấy một ai. Nhiều sự việc giống nhau xảy ra, làm cho lời đồn đại lan khắp cả một vùng. Người lo, kẻ mừng, nhưng ai cũng tin rằng Trời Phật đã có con mắt.

      Cứ như thế, Triều đi khắp mọi nơi và giúp đỡ người cùng khổ. Một hôm, anh tìm đến đất kinh kỳ. Mặc áo vào, anh tha hồ đi đó đây cho thõa mắt. Hết vào nhà bọn quyền quý, anh lại vào cấm cung là nơi từ xưa không một người nào như anh dám bước chân đến. Thấy người nghèo khó nhan nhản khắp phố phường, anh lẻn vào kho tàng nhà vua lấy của ra phân phát cho họ. Vì thế kho công luôn luôn bị hao hụt, nhưng không một ai tìm ra thủ phạm cả. Trong khi đó thì khắp kinh đô đồn ầm lên rằng có một vị Tiên thường cứu giúp những người đói khổ và trừng trị những tên gian tà. Ở đâu Tiên cũng có mặt, nhưng lại không "xuất đầu lộ diện" bao giờ.

      Nhưng một hôm, sau khi trừng trị một tên quyền quý đang ỷ thế đánh người, anh vội lẻn ra khỏi nhà hắn ngay vì thấy kẻ hầu người hạ của hắn nghe tiếng động đổ xô tới rất đông. Giữa lúc vội vàng, anh vướng vào một chiếc gai tre ở bờ giậu làm cho chiếc áo toạc mất một miếng. Sợ rằng để vậy có thể bị lộ, nên anh đã dùng một mụn giẻ vá lại. Sau đó hàng ngày anh lại vào kho nhà vua tiếp tục phận sự của mình.

      Từ ngày thấy kho luôn bị hao hụt, nhà vua hết sức lo lắng. Vua hạ lệnh cho bọn quan coi kho phải tìm bắt cho kỳ được tên trộm bí mật, nếu không sẽ trị tội không tha. Bọn này nhiều phen cố sức rình mò nhưng chỉ hoài công vô ích. Tiền bạc trong kho cứ vơi dần mà chúng vẫn không tìm ra một dấu vết gì đáng kể. Sau cùng, chúng sai thửa một kiểu bẫy lưới nhạy để chụp vào những nơi mà chúng ngờ.

      Hôm ấy, bọn quan coi kho bỗng thấy có một con bươm bướm trắng từ ngoài cổng bay vào kho. Bướm bay đi dạo lại trên những đỉnh bạc trắng xóa, rồi bướm lại thủng thỉnh bay ra. Lập tức chúng chụp ngay lưới xuống chỗ có bướm. Và thế là Triều bị bắt. Chỉ vì miếng vải vá vào chiếc áo tàng hình khiến anh bị lộ. Bắt được Triều, bọn quan coi kho mừng lắm, liền giải anh lên vua. Vua sai bỏ ngục để chờ ngày xét xử.

      Hồi ấy, có ông vua một nước láng giềng từ lâu vẫn nuôi ngầm mưu mô đánh chiếm nước ta. Giữa lúc Triều bị hạ ngục, thì hàng vạn binh mã của nước láng giềng cũng đang ùn ùn kéo sang. Nhà vua đã cho quân đội ra chống giữ, nhưng đánh trận nào thì thua trận ấy, không sao ngăn cản được kẻ địch tiến công như vũ bão. Tình hình bỗng trở nên nguy ngập. Tin cấp báo từ biên giới một ngày đưa về không biết bao nhiêu chuyến ngựa trạm, làm cho kinh đô nháo nhác. Nghe được tin này, Triều liền bảo quan coi ngục tâu vua cho mình được đi dẹp giặc cứu nước. Nhà vua mừng quá, vội sai tháo xiềng cho anh, và gọi anh đến hỏi:

      - Nhà ngươi cần bao nhiêu binh mã?

      - Tâu bệ hạ.

      Anh đáp: Chỉ cần một mình tôi cũng có thể đuổi được giặc giữ. Chỉ xin bệ hạ cho tôi một thanh gươm.

      Vua liền tháo gươm của mình trao cho Triều và phong anh là Hộ Quốc Tướng Quân, vua còn ra lệnh cho quân đội phải tuân theo lệnh anh.

      Trước ngày lên đường, những người nghèo khổ từ lâu được Triều cứu giúp, nay nghe tin anh được tha va phong tướng đi đánh giặc, đều tìm đến cảm ơn và tình nguyện đi theo. Triều cho sắp xếp thành đội ngũ và cùng kéo nhau lên đường.

      Lúc đến vùng quân giặc đang chiếm đóng, Triều mặc ngay chiếc áo tàng hình vào người rồi cầm gươm đi thẳng vào trại giặc. Chỉ một lát sau, anh chém chết tên chỉ huy toán quân tiên phong. Bọn giặc mất tướng như rắn không đầu, bỏ chạy toán loạn. Những người đi theo Triều chỉ có việc chia nhau đón khắp các nẻo tóm cổ đưa về. Đến những trại khác của giặc Triều cũng làm như vậy. Không bao lâu cả đội tiên phong tinh nhuệ của giặc bị tiêu diệt và bị bắt sống, không sót một tên. Các đội quân khác còn lại kinh hoàng, Cho là bên phía Đại Việt có vị thần thiêng trợ chiến nên bao nhiêu tướng tài của mình đều bị chém đầu. Thấy quân sĩ ngả lòng, tên vua láng giềng đành hạ lệnh rút lui. Từ đấy biên giới lại vô sự. Khắp nơi ai nấy ca tụng công lao của Triều.

      Lúc Triều kéo quân khải hoàn, vua khen ngợi anh hết lời. Vua phong cho anh làm quan đại thần, cắt đất hai huyện cho anh ăn lộc, lại gả con gái cho anh làm vợ. Từ đấy người ta quen gọi anh là quan Triều. Ngày nay ở Cao Bằng và Thái Nguyên còn có đền thờ.

       Chưa Đỗ Ông Nghè Đã Đe Hàng Tổng
     Ngày xưa có một người học trò nghèo nhưng học giỏi, được Thiên Đình rất chú ý. Trong sổ thiên tào hồi đó đã ghi cho anh chàng đậu chiến sĩ, làm quan đến Thượng Thư. Mỗi lần anh đi học thường qua một ngôi đền thờ thần ở làng bên cạnh. Vị thần làng đó vốn đã đọc ở sổ thiên tào nên tỏ vẻ cung kính đối với người học trò ấy. Những khi anh ta đi qua đền thì tượng thần đang ngồi trên bệ lật đật đứng dậy rất lễ phép.

      Một hôm người từ giữ đền nằm mơ thấy thần bảo:

      - Ngày mai ngươi phải quét dọn đền cho sạch sẽ tử tế vì có quan lớn đến chơi nhà ta.

      Người từ làm y như lời và suốt ngày hôm ấy hắn đứng chực ở cổng đền chờ đón vị khách quí của ông thần. Nhưng đợi mãi, hắn ta chả thấy một ai cả, trừ anh học trò nghèo xác nói trên ngày hôm đó vô tình có ghé vào đền nghỉ chân một lúc. Người từ cho là thường nên không để ý gì đến.

      Ít lâu sau người từ cũng lại chiêm bao thấy ông thầy dặn dò như trước. Lần này, hắn cũng chả thấy ai lạ hơn là anh học trò nghèo hôm nọ đến đây ngâm một bài phú rồi lại đi. Nhưng hắn vẫn không tin. Đến lượt thứ ba cũng thế. Bấy giờ người từ mới cho quả phù hợp với lời thần dặn, bèn kể chuyện cho người học trò nghe và bảo:

      - Đã ba lần như thế, nên tôi chắc rằng nhà thầy sau này sẽ đỗ đạt làm quan to chứ chẳng chơi.

      - Nghe nói, người học trò như mở cờ trong bụng. Anh ta quyết chắc cầm sự vinh hoa phú quí trong tay. Hắn nghĩ ngợi rất nhiều về tương lai của mình. Một hôm, khi ngắm lại nhan sắc vợ mình, hắn thấy không được đẹp tí nào cả. Thế rồi đêm hôm ấy nằm dưới bóng trăng hắn mơ tưởng một người đẹp như chị Hằng. Hắn bụng bảo dạ:

      - Rồi ta sẽ cho vợ ta về đi thôi! Một khi đỗ đạt thì thiếu gì nơi ngấp nghé muốn làm bà. Lúc đó ta tìm những đám con vua cháu chúa, đã da trắng moi son lại còn lắm của.

      Nghĩ thế, qua ngày hôm sau hắn kiếm cớ gây sự với vợ và đòi bỏ cho kỳ được. Mọi người đều lấy làm lạ và tỏ vẻ khinh bỉ một người có học như hắn lại có thể nhẫn tâm đến thế được. Nhưng hắn chỉ cười khẩy mà không kể gì dư luận.

      Một hôm khác có người đến đòi nợ hắn. Vừa mới bước vào sân, người ấy đã bị hắn chỉ tay vào mặt mắng cho một trận:

      - Ta chưa có trả. Không khéo nay mai ta sẽ cắm đất vào vườn ở của mày cho mày biết mặt.

      Hắn còn đe dọa nhiều người nữa. Gặp ai không vừa ý, hắn nói: "Rồi chúng mày sẽ biết tay ông!"

      Tất cả những hành động của người học trò đều được tâu báo về Thiên Đình. Ngọc Hoàng nghe nói rất phật ý. Cho nên ít lâu sau đó, người từ giữ đền lại nằm thấy ông thần tin cho biết là không phải kính sợ đối với người học trò nữa vì trên Thiên Đình đã tước sổ mất rồi, không cho đỗ đạt. Ông từ hỏi:

      - Tội của nó như thế nào?

      - Nó bị kết án là "dưới trăng bỏ vợ, trước sân đòi nhà, chưa làm nên đã thất đức". Bây giờ nó không được hưởng phúc nữa.

      Quả nhiên người học trò ấy từ đó thi mãi không đỗ, muốn nối duyên lại với vợ cũ cũng không được. Cửa nhà hắn ngày một sa sút dần. Do đó mà có câu tục ngữ "Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng".

          Người Chồng Chung Thủy
     Ngày xưa có một thầy đồ họ Lê, nhà nghèo khó, phải bỏ đi các nơi làm nghề gõ đầu trẻ. Về sau, anh được một phú ông làng nọ đón về "ngồi ở nhà" để cho con khỏi phải đi học xa. Phú ông có một cô con gái chưa chồng. Từ ngày có anh đồ đến ở nhà mình, cô gái đâm ra phải lòng chàng trẻ tuổi. Thấy cô gái thực bụng yêu mình, anh đồ cũng yêu lại một cách thắm thiết. Hai bên từng chỉ non thề biển quyết sống với nhau đến bạc đầu.

      Nhưng khi bố mẹ anh đồ mang trà rượu tới dạm cô gái cho con, thì phú ông nhất quyết không gả. Không những thế, sợ để thầy đồ "ngồi" tại nhà mình lâu ngày sẽ không có lợi nên hết năm đó, lấy cớ là con mình lên học tỉnh với cụ Cử chỗ bà con, phú ông mời thầy dọn đi chỗ khác. Thấy mối tình bị chia rẽ, cô không dám cho một ai biết, chỉ mình tự khóc với mình mà thôi. Xa người yêu, cô sinh ra tương tư, lâu dần sầu não thành bệnh. Mặc dầu thuốc thang chăm sóc cũng nhiều, bệnh cứ nặng thêm, chưa bao lâu nụ hoa mơn mởn đã sớm lìa cành.

      Thương tiếc con gái, vợ chồng phú ông tỏ ý hối hận. Họ bỏ tiền ra làm ma chay rất hậu. Người ta bỏ vào áo quan tất cả những vật kỉ niệm của nàng. Để tưởng nhớ lâu đài, người ta đập tấm gương soi của cô gái ra làm hai mảnh: một bỏ vào áo quan còn một đem đặt trên bàn thờ.

      Lại nói chuyện anh đồ họ Lê, từ khi bị phú ông từ chối và cấm cửa, cũng đau xót không kém gì cô gái. Nhưng vì sinh kế, anh phải bỏ đi dạy học ở một tỉnh xa. Tuy vậy, anh vẫn không quên theo dõi tin tức của người yêu. Khi biết nàng đã sầu não mà chết, lòng anh thương tiếc không lúc nào nguôi. Từ đấy anh quyết định ở vậy cho đến già, khước từ tất cả mọi đám do bà mối manh hoặc tìm giúp.

      Ba năm trôi qua.
      Một hôm vào dịp cuối năm, anh đồ khăn gói trở về quê hương. Đường đi phải qua làng người yêu, nhưng vừa bước chân đến đấy thì trời đã tối. Bỗng trời nổi lên một cơn giông, gió bụi mù mịt. Đang đi đường sắp sửa thấy mưa to, anh đồ lật đật tìm một nơi trú ẩn. Chạy quá mấy lùm cây thì may sao anh nhìn thấy xa xa le lói có ánh đèn. Anh vội băng đồng tìm tới. Khi đứng trước một ngôi nhà nhỏ, anh kêu cửa xin vào trọ. Cửa vừa mở, một cô gái cầm đèn bước ra. Anh hết sức ngạc nhiên vì người ấy chính là người yêu của mình ngày xưa. Anh kêu lên:

      - Ôi! Người hay là ma đây? Nghe người ta đồn là nàng đã chết rồi? Tại sao bây giờ lại ở đây?

      - Thiếp chưa chết đâu. Cô gái tươi cười đáp. Nếu chết rồi thì làm sao còn đứng nói chuyện được với chàng đây. Mấy năm nay thiếp hằng ngày tựa cửa đợi chàng. Hôm nay được gặp lại nhau, thiếp vui mừng biết mấy. Mời chàng vào đi, kẻo mưa.

      - Ở với người cô. Ở đây đôi ta có thể được tự do. Không một ai quấy nhiễu, ngăn cấm chúng mình cả.

      Nghe lời nàng nói, chàng họ Lê có vẻ ngờ vực. Anh rụt rè bước vào. Trong nhà bày biện có vẻ khác với ngôi nhà cũ ngày xưa anh ngồi dạy học, nhưng anh không tiện hỏi. Nhà vắng vẻ chỉ có một bà cô hom hem và nặng tai. Nhưng chỉ trong một chốc, cô gái đã gọi tới năm bảy người có cả đàn ông và đàn bà. Họ vật lợn, giả giò, đồ xôi, gói bánh, khiêng bàn dọn ghế rất tấp nập. Anh hỏi cô gái khi cô ghé lại ngồi bên cạnh:
      - Giết lợn đồ xôi làm gì vậy?
      - Để làm lễ cưới chúng ta đấy! Sao chàng hiểu chậm thế!
      - Không có bố mẹ họ hàng hai bên dự sao?
      - Có chứ. Có cô ruột. Có ông bà nội. Nhưng cũng phải giấu giếm một tí. Nếu có bố mẹ thì chàng chẳng lấy được thiếp đâu. Vả lại còn có xóm làng quanh đây đến chứng kiến cho đôi ta.

      Cô gái thấy anh có vẻ bỡ ngỡ, liền dắt anh vào buồng. Trong buồng bài trí rất đẹp. Cô gái lấy ra tất cả những vật kỉ niệm hồi còn trẻ, trong đó có chiếc lược anh đồ họ Lê tặng mình ngày trước, cho anh xem. Nhìn thấy chiếc lược sừng cũ, anh đồ cảm thấy yên tâm hơn. Anh rụt rè sờ thử vào người cô gái. Thấy nàng vẫn xinh xắn mềm mại như ngày xưa mọi ngờ vực của ông đồ bỗng nhiên tan biến hết.

      Chỉ trong một chốc, cỗ bàn đã bày xong. Khách đến dự khá đông, có cả ông bà nội cô gái, bà cô lúc nãy và nhiều ông già bà lão, khăn áo đều đẹp chỉnh tề. Người ta mời hai anh chị vào trước bàn thờ làm lễ. Mùi hương trầm sực nức. Một ông cụ khấn vái hồi lâu rồi cuối cùng quay ra chúc hai anh chị:"bách niên giai lão". Chàng họ Lê thấy cô gái đứng trước ánh đèn, gò má đỏ lên có vẻ thẹn thò.

      Sau đó họ ngồi vào mâm. Hai vợ chồng được ngồi riêng một mâm ở trong buồng. Cô gái ăn nhỏ nhẹ, nhưng anh đồ bụng đói nên cảm thấy ngon miệng. Phía ngoài, tiếng đũa bát chạm nhau và tiếng trò chuyện râm ran. Cuối cùng cảnh vật lại chìm vào vắng lặng như lúc mới đến.

      Hai người cùng nằm lên giường tỉ tê trò chuyện. Anh đồ chưa bao giờ cảm thấy sung sướng và thoải mái đến như thế. Anh đọc những vần thơ tả sự nhớ nhung sầu muộn từ ngày cách biệt cho vợ nghe. Cô gái hỏi anh:
      - Thế chúng ta đã thành vợ chồng, thỏa lời nguyện ước, chàng có vui sướng không?
      - Có.
      - Chàng đáp: Nhưng giá được phép bố mẹ, thì còn vui sướng gấp bội.
      - Thế ngộ nhỡ có việc gì, liệu chàng có còn thương đến thiếp không?
      - Thương.
      - Thương nhiều hay thương ít?
      - Thương mãi mãi.
      - Thiếp chết rồi, chàng còn thương nữa chăng?
      - Dù thế nào, vẫn thương hết mực.
      Rồi đó, sau cuộc ân ái, anh đồ lăn ra ngủ say.
      Đến sáng mai, khi bừng mắt tỉnh dậy thì không thấy cô gái và nhà cửa đâu cả, chỉ thấy mình nằm trên một ngôi mộ xây rất đẹp. Anh mới biết rằng tối hôm qua, mình đã lạc vào làng ma và được gặp người yêu. Anh chỉ thấy làm lạ, rằng bụng mình vẫn còn no, mũi vẫn còn phảng phất mùi hương trầm.

      Sau những ngày nghỉ ngơi ở quê nhà, anh đồ họ Lê lại trẩy vào mấy tỉnh đường trong để trở lại với công việc dạy học.

      Một năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Năm ấy tết đến, vì cơn bệnh dày vò, anh không về được. Khi lành bệnh, anh lại tiếp tục dạy học cho đến tháng năm. Một hôm, anh đồ họ Lê bỗng cảm thấy lòng xao xuyến, nhớ người yêu khôn tả. Hồi tưởng lại cái đêm năm xưa, anh tha thiết muốn gặp lại nàng lần nữa, dù thế nào cũng cam lòng. Anh bèn sửa soạn khăn gói từ giã đám học trò để trở về thăm quê. Qua làng của người yêu, anh không ngờ chân anh tự nhiên đưa anh bước theo lối cũ tới đúng vào cái nơi anh từng dự lễ thành hôn với người mình yêu dấu và lần này cũng đúng vào lúc đêm hôm khuya khoắt như hôm nào. Gọi cửa, anh lại thấy người yêu ra mở. Nhưng trong tay nàng giờ đây còn có một đứa bé chừng bảy tám tháng. Nàng trách chàng:
      - Sao chàng đến muộn thế? Thiếp giận lắm đấy!
      - Con ai thế này? Anh đồ họ Lê hỏi.
      - Con chàng chứ con ai. Này thử nhìn xem, nó giống chàng như đúc.

      Hai người dắt nhau vào dưới ánh đèn. Anh đồ liếc nhìn thấy vợ có phần xinh hơn trước, tuy rằng nước da hơi xanh. Thằng bé trong tay nàng bụ bẫm và có vẻ khôi ngô. Nàng nhìn anh cười:

      Sau này chàng nhớ dạy cho nó học. Nó sẽ làm hơn cả bố đấy!
      Sau khi ăn cơm xong, hai người lại lên giường, nhưng lần này vợ bảo chồng:
      - Hai chúng ta đã kết nghĩa vợ chồng, thật là thỏa tấm lòng mong ước. Nhưng thú thật với chàng: thiếp vốn là người ở cõi âm, còn chàng là người dương thế, không thể sum họp với nhau lâu dài. Nay chúng ta đã có một đứa con. Xin giao lại để chàng đưa nó về nuôi.

      Thấy chồng có vẻ ngần ngại, vợ lấy trong hòm ra một mảnh gương vỡ trao cho và nói:
      - Chàng đừng lo phải vất vả bận bịu về việc nuôi con. Bố mẹ thiếp từ ngày thiếp mất đi đã biết hối hận. Vậy chàng cứ tìm đến nhà bố mẹ thiếp mà ở, thế nào ông cũng không tuyệt tình với cháu ngoại đâu. Chàng đừng lo ngại gì cả. Với lại, chàng giữ mảnh gương này, khi con khóc đưa ra cho nó soi, tự khắc nó nín.

      Tình tự ái ân suốt đêm anh đồ lại ngủ quên. Sáng dậy, cũng như lần trước, mọi cảnh vật lẫn người yêu đều biến mất cả. Nhưng lần này, trên ngôi mộ ngoài anh ra còn có một đứa bé con với mảnh gương soi đã vỡ.

      Nhớ lời dặn của vợ, anh đồ họ Lê bế con tìm vào nhà phú ông. Sợ vợ chồng phú ông không nhận, anh chỉ xin họ cho mình ở nhờ để mở một lớp dạy học trò. Nhưng anh không ngờ vợ chồng phú ông lần này tiếp đãi mình rất tử tế và sốt sắng nhận lời. Lại nhờ có ông giúp đỡ, trường học của anh ngày một đông học trò. Từ đấy, anh đỡ vất vả hơn trước. Đứa con của thầy đồ cũng được gia đình nhà chủ nuôi nấng chăm sóc mà không tính công.

      Nhưng mỗi khi thằng bé khóc nư, thì không một người nào có thể làm cho nó nín được: dỗ dành cũng như dọa nạt đều chỉ phí công. Chỉ có đưa cho bố nó bế thì bao giờ nó cũng nín ngay. Một hôm, phú ông để ý rình xem vì sao thầy đồ lại có cách dỗ con tài tình như vậy. Khi trông thấy mảnh gương vỡ trong tay thầy đồ, phú ông vội kêu lên, ngỡ là thầy đã tự tiện lấy trộm mảng gương vỡ bày trên bàn thờ con gái. Anh chàng họ Lê phải hết sức biện bạch, cho mọi người hiểu rằng đó là vật kỉ niệm của vợ để lại, chẳng phải trộm cắp của ai. Phú ông vào lục tìm ở bàn thờ thì thấy mảnh gương của con mình vẫn còn. Và cả nhà rất lấy làm ngạc nhiên khi đưa cả hai ra so thì vừa như in những đường vỡ của hai bên khớp với nhau một cách lạ lùng. Sự ngạc nhiên càng tăng lên gấp bội khi họ thấy hai mảnh gương bỗng nhiên dính liền với nhau làm một.

      Anh đồ họ Lê đành phải thuật lại sự tình cho vợ chồng phú ông nghe. Từ đấy vợ chồng phú ông nhận anh là rể và nhận con anh làm cháu ngoại. Anh ở vậy nuôi con, không lấy vợ khác. Đứa con anh về sau quả học giỏi, thi đỗ làm quan, đúng như lời mẹ nó báo trước.

                Chuyện Ông Địa
     Làng Bình Sùng có gốc cây da to. Kế bên là miếu thờ ông Địa. Dân làng đồn rằng ông địa này linh lắm, nên họ hằng tới lui cúng kiến, khấn vái. Họ phải lãng phí rất nhiều tiền bạc để mua gà vịt, nhang đèn.

      Có một anh nọ không tin như vậy, thề không bao giờ cúng vái ông Địa. Lắm khi đi ngang qua miếu, anh nói giả ngộ: "Ông Địa ơi! Có rảnh chiều nay lại nhà uống rượu với tôi chơi!". Ai rầy la cũng mặc, anh không bỏ thói đó.

      Hôm nọ, bỗng dung anh lăn ra ôm bụng mà rên la dữ dội. Vợ anh chạy thuốc đủ điều mà bệnh không thuyên giảm. Sau cùng có người bàn nói:

      - Chắc là chồng chị bị ông Địa quở, chị lén ra miếu van vái, xin tạ lỗi thử coi!

      Y như lời, Vợ anh đem nhang đèn ra miễu vái lạy. Về tới nhà, anh nọ đã hết đau. Bữa sau, chị vợ khuyên chồng làm thịt heo trả lễ ông Địa. Anh đỗ quạu:

      - Ai biểu mình vái. Ông Địa cứu tôi, đó là bổn phận của ổng. Ơn nghĩa gì.

      Hôm sau, anh nọ phát đau dữ dội lần nữa.

      Xóm giềng bàn tán:

      - Chắc ông Địa quở rồi! Hôm trước có hứa, sau không chịu cúng heo cho ổng.

      Chị vợ ra miễu khấn vái. Chập sau, anh cũng hết đau. Vì vậy, hôm sau chị cương quyết làm thịt heo cúng. Nghe vậy, anh cãi lại:

      - Để tôi lo cho. Mình phải giao con heo sống nhăn này cho ổng. Nấu nướng trước, sợ ông ăn không vừa miệng.

      Rồi anh cột dây, dắt con heo ra miễu, cột chặt con heo vào cốt ông Địa.

      Tới trưa, heo đói bụng bèn lôi cốt ông Địa về nhà. Xóm giềng hoảng sợ. Song anh nọ tỉnh táo đem cốt nọ tắm sạch sẽ rồi ôm ra miễu trả lại chỗ cũ.

      Thấy anh nọ quá ngoạo mạn dễ ngươi, ông Địa quyết răn dạy anh một phen đích đáng hơn mấy lần trước nên đến bà Cửu Thiên Huyền Nữ mượn cái kim cô đem về. Báo vật này giống như cái niền, hễ trồng cái kim cô vào đầu ai thì kẻ đó phải đao đớn khôn tả, cái niền xiết vào đầu ngày một chặt, đến bể sọ.

      Hôm sau anh nọ bỗng nhiên la lên nhức đầu nhào lộn xuống đất. Không ai biết cách nào cứu trị. Có người khuyên nên vái ông Địa. Chị vợ khóc lóc:

      - Vái rồi chừng lành không chịu tạ ơn! Ai dám vái nữa.

      Kẻ khác bèn nói:

      - Chắc chồng chị tiếc con heo, vậy thì vái gà vịt thế nào cũng được.

      Đầu anh nọ càng nhức thêm. Túng thế anh vái:

      - Ông địa cho tôi hết nhức đầu, tôi cúng cho ông...

      Tới đây anh không biết hứa cúng vật gì cho gọn. Thấy anh quá bón xén, ông Địa bèn niệm thần chú cho cái kim cô nọ siết gắt hơn. Vì quá đau, anh nổi giận thét lớn:

      - Mình đưa cái búa lớn cho tôi. Để tôi bửa óc tôi ra coi cái gì ở trỏng mà nhức nhối mà hành hạ quá vậy?

      Biết anh nọ gan dạ; ông Địa sợ anh bửa ra thiệt. Nếu vậy, cái kim cô của bà Cửu Thiên Huyền Nữ phải đứt, uổng bửu bối nọ quá, phải bồi thường. Ông bèn thâu lại cái kim cô về miếu.

      Từ đó, anh nọ không còn đau bụng nhức đầu gì nữa. Xóm giềng cũng bớt tinh dị đoan cúng vái lặt vặt hao tài tốn công vô lý như trước.

            Quỷ Nhập Tràng

     Thuở trước, có bảy người đàn ông làm lái buôn, cùng một chuyến lên mạn ngược cất hàng, vì lỡ độ đường, nên phải xin ngủ nhờ trong nhà một người Kinh lên lập nghiệp ở mạn ngược đã lâu.

      Vào xin ngủ nhờ, bảy người lái buôn được chủ nhà cho biết: Trong nhà chỉ có hai vợ chồng, người vợ bị cảm nặng nằm ở trong buồng, còn người chồng phải ra đi tìm thuốc ở nơi xa, về đến nơi cũng đúng sáng mai. Tuy vậy, không thể làm cách nào khác hơn, chủ nhà vẫn phải ra đi, giao nhà cho bảy người lái buôn trông nom hộ.

      Chủ nhà ra đi, trời cũng vừa sập tối, bảy người lái buôn cơm nước vào no nê rồi, quây quần bên nhau để ngủ. Vào khoảng gần sáng, người lái buôn nằm ngoài bìa hết bỗng cựa mình thức dậy vì một luồng gió lạnh luồn vào nhà.Y lơ láo nhìn vào phía trong, thấy cửa buồng của vợ chủ nhà mở trống, ngọn đèn dầu trong buồng đang nhỏ như hột đậu xanh bỗng phựt lên sáng rỡ rồi nhỏ lại dần.

      Ngay lúc đó, người lái buôn chợt nghe tiếng điếu cày vang lên một nhịp đều đều, nhất là hơi rít cuối cùng nghe thật vui tai, tiếp theo đó là tiếng dép lẹp xẹp, rồi bất đồ bà chủ nhà vụt bước ra ngoài.

      Càng đáng ngạc nhiên hơn nữa là người đàn bà này đến bên người lái buôn thứ nhất luồng hai tay xuống nhấc bổng y lên, như nhấc một miếng gỗ thường, đoạn người đàn bà ghé miệng vào mũi người lái buôn hít một hơi dài. Hít xong, lại đặt người đàn ông nằm xuống y như cũ, đoạn bước trở vào trong buồng.

      Bên trong ngọn đèn dầu lại phựt lên sáng rỡ như hồi nãy rồi cũng lụn dần. Tiếng điếu cày lại vẳng lên từng chập. Độ năm phút sau người đàn bà lại hiện ra một lần nữa, bước ngay đến chỗ người lái buôn thứ hai, nâng đầu y dậy kê miệng vao mũi y hít một hơi dài như lần trước, rồi lại đứng lên quay bước trở vào buồng.

      Người lái buôn nằm bìa ngoài hết sức ngạc nhiên, nhưng cố im lặng để xem cái hiện tượng kỳ quái này ra sao. Rồi cứ như lúc đầu, mỗi lượt đèn phựt sáng lên, tiếng điếu cày ròn rã, thì người đàn bà lại hiện ra, tái diễn cái cảnh tượng đã diễn ra từ nãy, lần lượt đến người lái buôn thứ sáu.

      Người thư bảy, bị trống ngực đánh thình thình, nhưng vẫn nằm im không dám cục cựa. Nhưng lúc người đàn bà vừa quay đi, anh chàng sẽ rờ vào mình bạn thì thấy da thịt lạnh tanh như xác chết. Anh ta hoảng hồn, vùng ngồi phắt dậy. Người đàn bà nghe tiếng động quay lại nhìn, anh khiếp đảm quá thét lên một tiếng cắm đầu chạy ra cửa, nhảy từng bậc thang mà xuống khỏi căn nhà sàn chạy tuốt ra đường.

      Càng kinh khủng hơn, là người đàn bà tức tốc đuổi theo, anh ta càng chạy, người đàn bà càng cố đuổi cho kịp. Cái lạ lùng nhất là anh ta càng chạy nhanh người đàn bà càng đuổi nhanh, anh ta chạy chậm người đàn bà cũng chạy chậm.

      Trời dần dần hừng sáng, người đàn bà kỳ quái vẫn đuổi theo anh lái buôn thứ bảy chứ không chịu buông tha. Anh ta kinh hoảng quá rồi, chưa còn biết làm cách nào để thoát chết. Thời may, anh ta nom thấy bên đường có một cây gạo, thì chạy nhanh tới định trèo lên để trốn.

      Bỗng anh ta nghe đằng sau có tiếng "phập phập" thật lớn, rồi thân cây rung chuyển, anh ta hốt hoảng vấp phải cái rể cây, ngã vật xuống ngất đi.

      Mãi lúc mặt trời lên cao ba sào, người qua đường mới chợt thấy một cảnh tượng vô cùng khủng khiếp: Ở gốc cây có người đàn ông nằm sóng soài còn thoi thóp thở, còn bên cạnh có xác một người đàn bà ngã sang một bên, cánh tay phải xỉa ngập vào thân cây gần đến khuỷu.

      Họ cứu chữa cho người đàn ông tỉnh lại. Anh ta thuật rõ những điều nghe thấy trong đêm với mọi người. Chừng đó họ mới nói cho anh ta biết đám người lái buôn đã nhập quỷ nhập tràng. Căn nhà họ vào xin ngủ trọ có người đàn bà đã chết còn quàn xác lại, nên mới hiện hình hớp hồn sáu người kia, còn anh nhờ chạy trốn kịp nên mới thoát chết.

         Tú Xuất

     Ngày xuất là người lanh lợi, nói xuôi cũng được, nói ngược cũng xong. Khi ấy có nhà nữ tu có tiếng; Trong ấy có người con gái lịch sự, xinh đẹp, người ta ai ai cũng biết. Anh em bạn biết ve nàng ấy thì khó lắm, không ai ve được; bữa ấy mới đố Tú Xuất là làm sao mà bắt nàng ấy ra cho được.

      Tú Xuất chịu. Vậy mới tập trẻ hầu hạ, đứa kêu bằng chú, đứa kêu bằng bác, đưa kêu bằng cậu, đứa kêu bằng dượng, sắp đặt tử tế.

      Tú Xuất mới viết thư cho người đem vào thưa với bà sư cô coi nhà nữ tu ấy, mà xin bà ấy cho vợ mình lại, rằng nàng ấy tên là ấy, thật là vợ mình, vì giận hờn nhau mà bỏ mình lánh mình đi tu thôi. Nhứt diện xin với bà sư cô, nhứt diện đi thưa với làng sở tại. Làng đòi bà sư cô biểu đem nàng ấy ra đình làng mà tra hỏi cho ra việc. Tú Xuất chạy theo: Đứa kêu bác, đứa kêu thím, đứa kêu mợ, đứa kêu dì mà khóc cùng đường rằng: Sao cô bỏ...(chú, bác, cậu, dượng...) mà đi tu cho đành!

      Làng hỏi, nàng thưa một hai không có chồng, không biết người trai ấy là ai bao giờ...

      Làng bắt lý rằng: Sao trẻ năm bảy đứa em cháu nó khóc, nó kêu, nó nhìn mình..., sao nó không nhìn các cô khác? Nên làng dạy bà sư cô giao lại cho Tú Xuất đem vợ về.

      Nàng ấy giãy giụa khóc la mà phải vâng phép làng mà về theo Tú Xuất, không chối cãi gì được.

     Cô Gái Lấy Chồng Hoàng Tử
     Ngày xưa ở một làng nọ có một cô gái đẹp. Thấy mọi người đều trầm trồ về nhan sắc của mình, cô bỗng có cái nguyện vọng thầm kín là được lấy hoàng tử làm chồng. Ngày ngày cô đi chợ mua hương đến một ngôi đền trong vùng cầu thần phù hộ cho mình được lấy chồng như nguyện.

      Ở chợ hồi ấy có một người lái buôn hương. Thấy cô gái lui tới gánh hàng của mình, hắn thường thả lời chòng ghẹo, nhưng lần nào cũng bị cô nghiêm sắc mặt cự tuyệt. Tuy vậy, hắn vẫn tìm cách lân la gạ chuyện không nản. Một hôm, hắn chợt có ý muốn tìm biết ngày nào cô gái cũng chịu khó mua hương xong, sắp sửa ra về, hắn vội gửi gánh hàng cho người quen rồi lén đi theo bén gót. Nấp sau một cánh cửa, hắn nghe được tất cả những lời khấn khứa rì rầm của nàng và hiểu được điều nàng muốn. Lần khác, sau khi cô gái mua hương xong, hắn đã ba chân bốn cẳng chạy trước tới đền, nấp sau pho tượng thần. Khi nghe cô khấn vừa dứt, hắn nói vọng xuống, giả lời phán của thần:

      - Con gái như thế kia làm sao dám đòi lấy chồng hoàng tử. Trên thiên đình đã định cho con làm vợ một người lái buôn hương ở chợ. Số là thế, không thể khác được!

      Nghe lời truyền phán rõ ràng, cô gái lủi thủi ra về, trong bụng đinh ninh không thể tránh được số trời đã định. Ngày hôm sau, khi cô đi chợ, người buôn hương lại thả ong bướm, nhưng khác với các lần trước, lần này hắn được cô gái bắt lời. Biết là mưu mẹo của mình có kết quả, hắn hết sức tán tỉnh và cuối cùng cá đã cắn câu. Nhưng người buôn hương nghĩ rằng mình đã nhiều tuổi, nếu đưa lễ đến dạm hỏi chắc chắn bố mẹ nàng không đời nào chịu gả. Vì thế hắn có ý định tìm cách dỗ dành cho cô gái theo không, rồi kín đáo đưa nàng trốn về quê. Mà phải làm sao cho bà con xóm giềng của nàng không có ai hay, kẻo họ tìm cách ngăn trở. Khi thấy miếng mồi mười phần đã chắc ăn cả mười, hắn bèn hẹn nàng một ngày nọ tới chờ mình ở một cái lùm sau chợ, hắn sẽ đưa đi trốn.

      Đúng hẹn, hai người quả gặp nhau ở lùm cây. Người buôn hương bảo cô gái ngồi vào trong một chiếc bồ lớn đậy mẹt và buộc chặt lại, để hắn gánh đi cùng với một bồ khác đựng hàng. hắn ghé tai dặn nàng: "Làm như thế sẽ không bị lộ, qua một thời gian anh sẽ về thú thật với bố mẹ sau". Cô gái nọ cả tin ở số phận nên vâng lời theo hắn.

      Đường đi phải băng qua một khu rừng vắng. Trong khi người lái buôn hương lòng mừng khấp khởi với gánh hàng quý trên vai, thì tiếng thét của một toán lính làm cho hắn giật nẩy mình. Hắn không ngờ rằng ngày hôm ấy, có một hoàng tử đang đi săn ở khu rừng này. Đầu cửa rừng, người, ngựa, chó săn đang vây bọc các ngả. Vì đang làm việc gian lận, lái thương ta sợ quá, vội quẳng cả gánh hàng mà chạy. Sau đó, có mấy con chó săn đi qua bồ, ngửi thấy hơi người bèn lên tiếng cắn inh ỏi. Nghi ngờ, bọn lính dừng lại lục soát. Khi thấy trong bồ có một cô gái đẹp, bọn chúng rất đổi kinh ngạc, vội dẫn chàng đi gặp hoàng tử lúc đó cũng vừa phi ngựa đến nơi.

      Hoàng tử chưa bao giờ thấy một người con gái xinh đẹp đến thế, bèn xuống ngựa bảo nàng ngồi lại chuyện trò. Nghe cô gái kể hết nổi lòng, hoàng tử ngỏ ý đưa nàng về cung làm vợ. Nhân săn được một con hổ, hoàng tử bèn sai bỏ con thú vào bồ đậy mẹt và buộc chặt lại như cũ. Đoạn, ra lệnh cho mọi người trở về kinh thành.

      Sau khi hoàng tử và quân lính đi xa, người lái hương từ chỗ trốn lại quay về tìm gánh hàng quý của mình. Thấy cặp bồ còn nguyên chỗ cũ, hắn vội vã đặt gánh lên vai và rảo bước một mạch về nhà. Đến nơi, người nhà xúm lại, hỏi hắn:

      - Bồ gì mà nặng thế?

      Hắn đáp đùa để dọa:

      - Đừng có nhìn mà chết. Hổ đấy!

      Nói đoạn, hắn vội xách bồ quý vào buồng đóng cửa lại. Nhưng vừa mở mẹt thì con hổ từ trong đã nhảy ra, vồ hắn ăn thịt.

                   Cô Hồn Đền Ơn

     Ngày xưa, có ông bá hộ lòng dạ rất nhân từ. Ngày rằm tháng bảy, ông đốt nhang đèn bày bánh cúng, bánh cấp, mía, chuối để các cô hồn về hưởng. Cúng xong xuôi ông yên trí vô nhà nằm nghỉ.

      Gần nhà ông, có một chòm mả hoang. Đêm đó, có anh bán dầu dừa đi lỡ đường đến chòm mả nọ mà nghỉ lưng. Anh ta nghe thì thào như nhóm chợ, bọn ma quỷ bàn tán qua lại:

      - Đồ ăn ngon quá, mấy anh dám ăn không?

      - Ông bá hộ có lòng tốt nhưng làm sao ăn được?

      Tề Thiên Đại thánh nói rằng bánh cúng không được tinh khiết. Hồi gói bánh, có con nhỏ đầy tớ rủi đứt tay, làm dính máu trong lá chuối gói bánh.

      Anh bán dầu dừa biết đó là tiếng nói của cô hồn. Sáng hôm sau, anh ta lập tức đến nhà ông Bá Hộ mà báo sự tình. Ông Bá Hộ hết sức buồn bã, nghĩ thầm:

      - Không lẽ mình rầy rà bọn đầy tớ! Cách hay nhất là mình cáo lỗi quỷ thần, cúng lại lần thứ nhì.

      Đêm sau, cúng xong, ông Bá Hộ nhờ anh bán dầu dừa ra ngoài chòm mả hoang nghe ngóng tin tức.

      Anh ta y lời, rình nghe bọn cô hồn bàn tán:

      - Thất bại nữa! Phen này tụi mình chết đói. Hồi hôm qua lá chuối dính máu. Bữa nay thì nấu bánh bằng củi ô uế ở chuồng heo...

      Anh bán dầu dừa trở lại thuật cho ông Bá Hộ hay. Ông này buồn bã, hỏi lại thì rõ ràng bọn gia nhân đã lấy mấy khúc củi chuồng heo mà chụm lửa nấu bánh.

      Ông Bá Hộ đến chùa gần đó, nhờ nhà chùa cúng giùm, như vậy bảo đảm hơn.

      Cúng xong, anh bán dầu cũng ra chòm mả nghe ngóng. Nhưng lần này anh ta dạn dĩ hơn, lên tiếng trước:

      - Cô hồn các đẳng ơi! Cúng như vậy ăn được không?

      Cô hồn mừng rỡ nói:

      - Được! Được! Ông Bá Hộ có lòng tốt trì chí lo lắng chu đáo miếng ăn cho tụi tôi. Anh về nói với ổng: Chừng một trăm ngày nữa chúng tôi đền ơn ổng một vật xứng đáng lắm.

      Sẵn có máu tham, anh bán dầu dừa không thuật lại điều ấy cho ông Bá Hộ biết. Anh ta giả đò xin cất chòi kế bên cửa ngõ của ông Bá Hộ. Rồi anh ta sống nương náu chờ ngày mà cô hồn đã hứa. Rình mãi không thấy gì, anh ngã lăn ra ngủ thiêm thiếp. Gà gáy sáng, bừng mắt dậy thì rõ ràng có ba cái lu lớn đặt trước cửa ngõ tự hồi nào. Mỗi lu đều có một con rắn hổ quấn chung quanh. Trong lu, toàn là vàng thoi, bạc nén. Anh ta thò tay vào lu. Tức thì bao nhiêu vàng bạc đều hóa ra hằng trăm con rắn đen thui, bò lúc nhúc. Hoảng sợ, anh rút tay ra. Vàng bạc hiện trở lại y nguyên. Lúng túng, anh ta không biết xử trí lẽ nào. Ông Bá Hộ bước ra cổng, thấy vậy bèn sai gia nhân khiêng vàng bạc vào nhà.

      Để đền ơn anh bán dầu, ông Bá Hộ cho hai thoi vàng, hai nén bạc. Cầm trên tay, anh ta mừng quýnh vì vang bạc không hóa thành con rắn nữa. Anh ta ra đi, cười hát nghêu ngao rồi vô quán rượu say sưa.

      Tỉnh rượu thì hai nén bạc, hai thoi vàng nọ đã bị người khác ăn cắp từ hồi nào.

           Con Chó Đá

     Ngày xưa, có anh học trò, mỗi ngày đi đến nhà thầy, phải ngang qua một nơi có con chó đá. Lạ một điều, ai đi qua thì con chó cũng trơ trơ, chỉ có anh học trò mỗi lần đi đến thì con chó nhổm dậy tỏ vẻ mừng rỡ.

      Anh học trò không khỏi lấy làm lạ, lần kia liền dừng lại hỏi con chó đá rằng:

      - Người qua lại ở đây cũng đông, sao các người khác mày không mừng, chỉ riêng mình tao thì mày mừng là tại cớ chi?

      Con chó đá đáp rằng:

      - Khoa này bao nhiêu người kia, chẳng có ai đỗ đạt cả, chỉ có một mình cậu thi đỗ, số trời đã định nên tôi mừng cho cậu vậy.

      Anh học trò nghe nói vậy rất mừng, lúc về nhà kể chuyện lại cho cha mẹ nghe. Từ đó, người cha bỗng lên mặt kiêu căng phách lối bắt nạt mọi người. Có lần người cha dắt trâu ra đồng cày ruộng, thả trâu cho dẫm lên mạ của người làng. Người ta nói, ông ta không thèm đáp lại. Hôm sau, đem thêm trâu ra dẫm be bét cả ruộng của người ta. Chủ ruộng lấy làm bất mãn phiền hà, thì người cha trợn mắt múa chân tay đe dọa:

      - Coi chừng, khoa này con ông thi đỗ thì bây sẽ biết tay ông.

      Chủ ruộng nghe vậy thì hoang mang lo lắng nên phải chịu lép mọi bề. Hôm sau, anh học trò đi qua chỗ con chó đá thì không thấy nó nhổm dậy vẫy đuôi mừng nữa. Lúc quay về nó cũng không mừng. Anh học trò ngạc nhiên hỏi con chó:

      - Mọi lần tao qua đây mày thấy mày mừng, cớ sao bữa nay mày không mừng nữa, tao có làm điều chi không hay chăng?

      Con chó đá đáp rằng:

      - Việc này không phải tại cậu mà tại cha của cậu lên mặt hống hách bắt nạt đầu này, ức hiếp đầu kia, cho trâu phá ruộng mạ của người ta còn lên giọng hăm dọa, nên Thiên Tào bôi sổ của cậu rồi, khoa này cậu không đỗ đâu, như vậy tôi còn mừng cậu làm gì nữa.

      Anh học trò nghe con chó đá nói vậy thì buồn bã ra về thuật chuyện cho cha mẹ nghe. Người cha lấy làm hối hận, từ đó không dám lên mặt hống hách nữa. Riêng anh học trò, khoa đó vào thi mặc dầu học giỏi và cố gắng anh vẫn không đỗ. Lòng lấy làm buồn, vác lều chiếu trở về đợi đến khoa sau.

      Khoa sau và khoa sau nữa anh đều thi rới. Cha mẹ anh bấy giờ mới biết lẽ trời chí công,nên hết lòng tu nhân tích đức, ăn ở rất tử tế với mọi người.

      Một hôm, anh học trò đi ngang qua chỗ con chó đá, con chó bỗng nhổm dậy mừng rỡ nhìn anh. Anh chưa hỏi gì thì con chó đã lên tiếng:

      - Bấy giờ cha cậu mới biết ăn năn sửa mình làm điều thiện, nên Thiên Tào đã ghi tên cậu vào sổ tân khoa, tôi mừng cho cậu đó.

      Quả nhiên, khoa thi đó, anh học trò đậu đầu, lúc trở về làng được đón rước linh đình, lúc qua chỗ con chó đá, thì con chó biến đi đâu mất.

         Giết Chó Khuyên Chồng
     Ngày xưa có hai anh em họ Trình, ăn ở với nhau cũng thuận hòa, chỉ ngặt là người anh thích chuyện ăn chơi, giao du kết bạn, vì vậy bao nhiêu tiền của cha mẹ để lại, người anh giành lấy hết, không để cho người em ruột một đồng nào làm vốn sinh nhai.

      Người em phải chịu cảnh thiếu thốn nghèo khổ, còn người anh thì tối ngày trà rượu, bài bạc rong chơi. Người anh đi tới đâu cũng có vài ba gã "cặp tàu" để được ăn uống phủ phê, người anh thường lấy thế làm hãnh diện với làng nước, người vợ có to nhỏ khuyên giải thế nào cũng không nghe. Đã vậy người em có đến cậy nhờ chút đỉnh tiền bạc, thóc gạo thì người anh khăng khăng từ chối, đuổi về, trong lúc đó hễ bạn bè của anh ta có cần một đôi quan tiền, người anh lấy đưa ngay không tiếc. Vợ thấy thế bảo chồng:

      - Không ai lạ đời như mình cả, ruột lại bỏ ra, người xa bỏ vào là nghĩa lí gì?

      Người chồng cãi lại:

      - Đàn bà biết gì, để rồi coi, nếu có chuyện gì, bạn bè họ không bỏ tao chớ chú Ba nó thì đừng hòng nhờ cậy gì.

      Nói rồi người anh hiu hiu tự đắc cho rằng mình xử thế rất khéo, không mảy may lưu ý đến chuyện giúp đỡ người em. Người vợ biết nói gì nữa với chồng cũng vô ích, nên lẳng lặng làm thinh.

      Đêm kia, người chồng vừa về tới nhà, vợ run rẩy kêu chồng vào buồng nói rằng:

      - Nguy rồi, hồi chiều này có một lão ăn xin đến trước cửa nhà mình kêu đói, mình cho một bát cơm mà lão còn chê ít đứng ỳ ra đó, đuổi mãi không đi, giận quá, em lấy gậy, đánh lão một gậy lão liền ngã lăn ra chết. Em liền bó thây lão trong chiếc chiếu để dưới sàn ngoài kia, bây giờ mình liệu đem chôn lão cách nào đừng cho ai biết mới tránh khỏi tội giết người, thiệt là oan gia khi không kéo đến nhà mình vậy.
      Nghe vợ nói xong, người chồng liền bảo ở nhà đợi, mình đi tìm các bạn về phụ lực đem chôn. Các bạn của anh ta khi nghe kể chuyện, thẩy đều tìm cách thoái thác và còn khuyên anh ta nên thú tội với quan. Anh ta chán nản về nói với vợ phải liệu cách nào khác chớ mấy thằng bạn chẳng người nào chịu tiếp tay đem chôn lão ăn mày.

      Người vợ bèn nói với chồng:

      - Hay để em đi mời chú Ba may ra chú biết nghĩ tình giúp mình một tay.

      Người vợ đi mời người em đến, phụ lực với anh đem chôn lão ăn mày.

      Chẳng ngờ mấy thằng bạn của người anh đều là kẻ tiểu tâm, muốn lập công nên họ kéo nhau đến huyện đường tố cáo. Quan huyện truyền cho sai nha đi bắt người anh điệu đến phủ đường. Người vợ liền đi theo kêu oan cho chồng.

      Người vợ bẩm với quan huyện:

      - Thưa quan huyện những người bạn của chồng tôi họ cáo gian. Sự thật là chẳng có ông già ăn mày nào bị đánh chết cả, vật bó chiếu đem chôn là một con chó.

      Quan huyện không tin cho quật mồ lên xem thì thấy xác một con chó bị đánh chết. Liền hỏi qua duyên cớ. Người vợ thật tình nói rằng vì muốn khuyên chồng chừa bỏ cái thói giao du với những người bạn xấu nên mới làm thế để cho chồng thấy rõ bụng dạ nham hiểm của con người.

      Quan huyện hết lời khen ngợi người đàn bà có chí và truyền răn phạt người xấu xa độc ác. Người chồng đã tỉnh ngộ, xa lánh bài bạc rượu trà và các bạn bè không tốt, từ đó rất thương yêu người em, hết lòng giúp đỡ người em được no ấm.

      Con Cọp Có nghĩa

     Xưa có một gia đình họ Võ nuôi một con cọp. Cọp nọ lớn lên được gia đìng thương mến xem như con ruột. Ông Tú tài họ Võ dạy hai đứa con của mình (một trai, một gái) kêu cọp nọ bằng anh Hai.

      Vài năm sau, ông được lệnh ra Huế lãng chức vụ mới. Trước khi đi, ông kêu cọp nọ mà căn dặn ráng ở nhà nuôi mẹ nuôi em.

      Chừng ông đi được vài ngày, cọp nọ bỗng dưng lại bàn thờ quỳ xuống, la hét. Người mẹ an ủi cọp. Cọp bèn ra dấu tỏ ý muốn xin phép ra đi rồi trở về. Bà Tú tài họ Võ cho phép. Cọp mừng rỡ chạy mất.

      Bữa đó ông Tú tài nằm trên cáng trên đường về Huế, thình lình gặp con cọp đón đường. Nhìn lại, rõ là cọp ở nhà chạy theo! Ông biểu cọp trở về. Cọp khóc lóc, sau cùng đem dâng cho ông Tú tài một hoàn thuốc xạ hương để phòng bệnh dọc đường.

      Khi về nhà cọp nọ biến ăn biến uống. Về sau được thư ông Tú tài gởi về, cả nhà mới biết rằng con cọp đi kỳ rồi là để dâng thuốc. Ai nấy hết sức cảm động.

      Vài hôm sau, ông Tú tài đau nặng, nhờ hoàn thuốc nọ nên tạm thuyên giảm. Ông bèn gởi thư nhắn đứa con trai lớn ra săn sóc. Đứa con đến nơi, ông đã chết.

      Cọp ở nhà hằng ngày lo nuôi mẹ và em gái, rảnh thì vô rừng bắt heo hoặc đi lối xóm cột bùa cho con nít kiếm tiền về chi dụng. Hỡi ôi, gia đình bà Tú tài càng ngày càng suy sụp. Nhuốm bệnh, bà từ trần. Cọp khóc lóc thảm thiết, chạ đầu làng cuối xóm để báo tin buồn rồi lạy tạ ơn những người đến giúp chôn cất mẹ.
      Năm bảy tháng sau, người con trai ở Huế về Bến Tre. Chừng gặp mặt, cọp khóc lóc rồi dẫn hai anh em ra thăm mả của bà Tú Tài. Đến nơi, cọp đập đầu vào mả mà tự tử.
      Người con trai bèn để tang cho cọp, làm lễ chôn cất kỹ lưỡng rồi lập miếu thờ, đề mấy chữ: "Nghĩa Hổ Trưởng Huynh chi mộ". Sau đó có người làm thơ khen tặng như vầy:
      Hùm còn biết nghĩa nặng cùng người,
      Trả thảo liều thân giữa đất trời
      Một tấm gia dầu chôn chặt đất
      Trăm năm còn mãi tiếng khen đời.
+++++++++++++

         Con Quạ Sói Đầu
     Ngày xưa, Ngưu Lang vì say mê nhan sắc của nàng Chức Nữ mà bỏ phế việc chăn trâu, để trâu đi vào điện Ngọc khiến Ngọc Hoàng nổi giận, còn Chức Nữ lại say mê tiếng tiêu của Ngưu Lang nên bỏ việc dệt vải. Ngọc Hoàng vô cùng phẫn nộ, về sau đầy cả ra đầu sôngNgân cuối sông Ngân, Ngọc Hoàng nghĩ thương tình cho Ngưu Lang, Chức Nữ mỗi năm gặp nhau một lần vào ngày mùng 7 tháng 7.

      Thuở bấy giờ, trên sông Ngân không có thuyền bè, Ngọc Hoàng mới ra lệnh làm một chiếc cầu bắc ngang sông Ngân. Các thợ mộc ở dưới trần được mời lên trời lo việc làm cầu.

      Thế rồi, các thợ mộc mạnh ai nấy làm, mỗi người mỗi ý, gần đến hạn kỳ mà chiếc cầu vẫn không xong.

      Ngọc Hoàng lấy làm bực tức, bắt tội tất cả thợ mộc, hóa làm kiếp quạ, lấy đầu sắp lại làm cầu cho Ngưu Lang, Chức Nữ bước lên đó đi qua sông đểgặp nhau.

      Hai Anh Em Làm Ruộng
     Hai anh em làm ruộng chung với nhau, tới lúa chín, thằng anh nói em rằng:

      - Tao lấy khúc ngọn, chia khúc gốc cho mầy!

      Thằng em nói:

      - Chia như vậy, sao công bình?

      Thằng anh nói:

      - Sao không công?

      Qua sang năm thì mầy lấy ngọn, tao lấy gốc, bởi vì mày làm em phải ăn sau.

      Thằng em cũng nghe lời.

      Qua năm sau, trời sa mưa dông, thằng em thúc làm ruộng, thì anh nói rằng:

      - Năm nay tao coi mòi ruộng thất thu, thôi để đất trồng khoai xong hơn.

      Nghề khoai thì củ ở dưới gốc, té ra hai năm cũng một mình thằng anh hưởng lộc.

   Cứu Vật, Vật Trả ơn
     Xưa có anh chàng nho sĩ nọ lo sôi kinh nấu sử, chờ khi ra kinh đô ứng thí. Hằng ngày chàng cầu nguyện Phật,Trời phù hộ, lo làm việc phước đức. Lúc đi dạo, chàng gặp lũ trẻ chăn trâu đang bắt được một con lươn to lớn. Nho sĩ hỏi:

      - Tụi bây bắt làm chi vậy? Thả ra đi.

      Lũ trẻ nói:

      - Bắt để nướng ăn chơi.

      Chàng nho sĩ nhìn con lươn nọ, thấy nó chảy nước mắt như muốn khóc, chàng nài nỉ mấy đứa bé mua con lươn lại. Đem đến mé sông, chàng thả con lươn mà nói:

      - Cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán. Ta cứu mi, phóng sanh mi. Vậy thì mi phải đền ơn, giúp ta chiếm lấy bảng vàng.

      Năm sau, chàng ra đất kinh ứng thí, lòng dạ khấp khởi mừng thầm, tin rằng thế nào cũng thi đậu, dè đâu chàng thi rớt, buồn tình quảy khăn gói về quê và than phận học tài thi mạng.

      Đến mé sông nọ, chàng gặp bọn lính đứng canh phòng cẩn mật nơi bến đò. Hỏi thì bọn lính trả lời: nguy hiểm lắm! Dưới sông có con mãng xà thường nổi lên nhấn chìm ghe xuồng. Ai muốn qua sông phải chờ tụi tôi hộ tống mới bình yên được.

      Chàng nho sĩ hỏi:

      - Chừng nào mới hộ tống?

      Bọn lính khuyên chàng chờ khi đò đầy chừng vài chục người. Nóng lòng, chàng muốn ra giữa sông để tìm con mãng xà nọ mà tra hỏi, chắc rằng nó là con lươn hồi năm trước chàng đã phóng sanh. Chàng năn nỉ. Bọn lính cho chàng qua trước một mình.

      Đến giữa sông, sóng gió ầm ầm. Con mãng xà hiện lên, phun nước hả miệng chờ mồi. Chàng nho sĩ chỉ vào mặt nó mà thét:

      - Mi không nhớ sao? Ta cứu mi, không nỡ để mấy đứa chăn trâu ăn thịt mi...

      Con mãng xà nói:

      - Thây kệ, ta cần ăn thịt mi ngay lập tức.

      Chàng nhi sĩ nói:

      - Mi nói vậy có tội lắm. Cứu vật, vật trả ơn, cứu nhân, nhân trả oán. Trả ơn như vậy đó hả?

      Con mãng xà cãi lại: "Cứu vật, vật trả oán". Túng cùng chàng nho sĩ thách đố con mãng xà nọ đi với mình để hỏi những người dọc đường coi câu nói ai đúng. Chàng nói:
     - Mi với ta gặp ba người đầu tiên thì cứ hỏi. Nếu họ nói rằng đúng thì mi có tội. Bằng không thì ta chịu tội.

      Bước lên bờ, họ gặp một con trâu già đang ăn cỏ. Chàng nho sĩ phân trần. Con trâu đáp:

      - Cứu vật, vật trả oán. Như vậy mới đúng.

      Tức thì con mãng xà rống lên, toan ăn thịt chàng nho sĩ. Chàng nho sĩ khuyên nó hãy chờ vì còn phải hỏi thêm hai người nữa.

      Chập sau, họ gặp một con cá chẻm, con cá chẻm nói:

      - Xưa nay, cứu vật thì vật trả oán, không bao giờ vật trả ơn. Con mãng xà nói đúng!

      Bị thua lần thứ nhì, chàng nho sĩ vô cùng đau xót trong lòng. Tuy nhiên, chàng vững lòng tin tưởng nơi Trời Phật.

      Đức Thế Tôn muốn cứu chàng nên hiện ra làm một ông lão râu tóc bạc phêu, chống gậy đi lại.

      Con mãng xà nói với nho sĩ:

      - Người thứ ba đã đến. Nếu phen này mi thua nữa thì ta có quyền ăn thịt mi.

      Ông lão nọ, tức là Đức Thế Tôn, bèn mời nho sĩ, con mãng xà, con cá chẻm và con trâu vào một ngôi chùa gần đó mà phân xử cho rõ đầu đuôi.

      Ông lão nói:
      - Nho sĩ này nói đúng. Tụi bây toa rập nhau để ám hại người lành. Từ rày về sau, con mãng xà này trở thành cái giá để treo chuông, con trâu này phải lột da bịt trống, con cá chẻm phải trở thành cái mõ. Khi tụng kinh, lễ Phật, các sư sãi có quyền hành tội các ngươi, giộng chuông, gióng trống, gõ mõ để nhắc nhở cho muôn loài về sự ăn ngay ở thẳng.

            Của Thiên Trả Địa
     Ngày xưa, có hai anh chàng Thiên và Địa, cày thuê cuốc mướn cùng một làng. Họ giống nhau ở chỗ, anh nào anh ấy đều nghèo rớt mùng tơi và đều mồ côi cha mẹ, nhưng Thiên sáng dạ, bảo gì hiểu nấy.

      Một hôm Địa bảo hắn:
      - Nếu chúng ta ccùng như thế này cả thì không bao giờ mới cất đầu lên được. Sẵn anh là người có khiếu thông minh, nếu được học hành chắc ngày sau sẽ thi đậu được làm quan to. Vậy từ nay anh đừng đi làm nữa, tôi sẽ cố sức làm thêm để lấy tiền nuôi anh ăn học. Lúc nào anh làm nên, đôi ta sẽ chung hưởng phú quý.

      Thiên nhận lời nhưng Địa còn dặn:

      - Lúc nào hiển đạt anh đừng có quên tôi nhé!

      Rồi từ đó Địa trần lực đêm ngày làm thuê để nuôi bạn. Thấy Thiên học mỗi ngày mỗi tiến, anh chàng lại càng hăng làm việc không quản gì cả.

      Cứ như thế sau mười năm đèn sách, Thiên đậu khoa thi Hương rồi vào thi đậu luôn trạng nguyên.

      Hắn được nhà vua bổ làm quan to, có kẻ hạ người hầu đông đúc, có dinh thự nguy nga được mọi người trọng vọng.

      Được tin Địa rất sung sướng, lập tức anh chàng đem trâu và cày về trả cho chủ, rồi anh bán phăng cái nhà, lấy một số tiền mua đồ lễ tìm vào dinh bạn.

      Địa có ngờ đâu, khi đến nơi thì Thiên đã thay lòng đổi dạ không muốn nhận lại bạn cũ nữa. Hắn dặn quân canh cấm cửa không cho Địa vào. Địa bị đuổi, tủi thân lủi thủi ra về.

      Vừa đến bờ sông anh chàng ngồi lại nước mắt rơi lã chã, nghĩ đến lòng người đen bạc, số phận hẫm hiu, vả bây giờ về làng cũng không biết ở vào đâu nữa vì nhà đã bán rồi...

      Cảm động, Bụt hiện lên giả làm một người khách qua đường, đứng lại hỏi anh:

      - Con làm sao mà khóc?

      Địa kể lể đầu đuôi cho Bụt nghe. Bụt bèn hóa phép cho anh một chiếc đò và dặn:

      - Con cứ ở đấy chở khách qua lại trên sông này cũng đủ ăn, không phải đi làm thuê nữa.

      Địa nghe lời, ở lại đó làm nghề chống đò ngang, nhưng anh chàng chỉ kiếm vừa đủ nuôi miệng, không để dành được đồng tiền nào, cho đến ngày giỗ cha chẳng biết lấy gì mà cúng.

      Chiều hôm ấy, sau khi chở cho mấy người khách sang bờ bên kia, Địa vừa chèo về đến nửa sông lại nghe có tiếng gọi đò, anh quay đò trở lại, khách là người đàn bà còn trẻ tuổi và xinh đẹp.

      Thấy đã nhá nhem, người đàn bà nói với Địa:
      - Trời đã tối mà đường còn xa, anh làm ơn cho tôi nghỉ nhờ một đêm.

      Nhà Địa là một túp lều bên sông, trong nhà chỉ có một cái chõng, nhưng anh cũng nhường cho người đàn bà ấy nằm.

      Thấy Địa toan đi kiếm một nơi khác ngủ, người đàn bà bỗng hỏi anh:

      - Anh đã có vợ chưa?

      Địa trả lời:

      - Chưa!

      - Tôi xin làm vợ anh.

      Địa rất ngạc nhiên và bỡ ngỡ, không biết trả lời lại thế nào cả. Nàng lại nói:

      - Tôi là người trên cung tiên. Trời thấy anh là người tử tế mà chịu khổ, chịu sở đã nhiều nên cho tôi xuống giúp anh sung sướng.

      Nói rồi nàng hóa phép biến túp lều bên bờ sông thành một dinh cơ rất đẹp: Nhà ngói, hành lang, sân gạch trong nhà đồ dùng thức đựng đầy đủ, kẻ hạ người hầu từng đoàn.

      Địa vừa kinh lạ vừa sung sướng. Nàng tiên lại hóa phép làm ra cỗ bàn linh đình để cho chàng làm giỗ cúng cha.

      Sáng hôm sau, nàng tiên bảo Địa hãy mặc đồ gấm vóc, ngồi kiệu đến mời Thiên sang nhà mình ăn giỗ.

      Lần này Địa được Thiên tiếp đãi có phần tư tếû. Nhưng khi nghe nói đến mời ăn giỗ, hắn bĩu môi bảo Địa:

      Muốn ta tới chơi thì hãy trải chiếu hoa từ đây tới nhà, ta sẽ đến.

      Địa về kể lại cho vợ nghe, nàng tiên lại hóa phép thành chiếu hao trải một đoạn đường dài từ nhà mình đến dinh Thiên ở.

      Thiên không ngờ trong thời gian vừa qua, Địa cũng trở nên giàu có lớn, mới đến xem cho biết sự tình. Đến nơi hắn rất lấy làm lạ khi thấy nhà cửa và mọi thứ đồ đạc của Địa ít có một nhà nào bì kịp. Khi ăn giỗ, vợ Địa thân hành ra mời rượu.

      Thấy nàng đẹp quá, Thiên đâm ra ganh tị với hạnh phúc của Địa, rượu say hắn nói:

      - Chú đổi vợ chú cùng cơ nghiệp này cho tôi thì tôi nhường chức quan cùng dinh cơ của tôi cho chú.

      Không bao giờ Địa lại muốn thế, nhưng nàng tiên bảo nhỏ xui Địa bằng lòng. Hai bên cùng làm tờ giao ước, thế rồi sau đó Địa lên võng về dinh.

      Còn Thiên sau rượu nằm ngủ một giấc li bì, nhưng đến sáng hôm sau, khi bừng mắt tỉnh dậy, hắn ngơ ngác thấy mình nằm ở giữa một túp lều bên sông. Người vợ đẹp cùng dinh cơ của hắn ngày hôm qua đã biến đâu mất cả.

      Từ đó, hắn làm nghề chống đò thay Địa, còn Địa hóa ra thông minh, khôn ngoan làm quan sung sướng mãi.

      Ngày nay, câu nói "Của Thiên trả Địa" là do sự tích ở trên mà có.
Truyện 040  Diệt Và Xương
    Xưa có vị quan tên Nguyễn Hữu Long, hiền từ ai ai đều mến phục, ông rất đỗi thông minh dù nguy hiểm cỡ nào ông cũng đối phó được.

      Một hôm đang ngồi đọc sách ở thư phòng có quân vào báo cáo:

      - Thưa ngài, dân trong xóm đang làm lễ. Họ bắt hai đứa bé, đem tắm rửa sạch sẽ rồi đốt hương trầm, chờ hiếng dâng cho Mãng Xà vương.

      Quan ngự y hỏi:

      - Chừng nào Mãng Xà vương đến?

      - Dạ chúng tôi chưa rõ.

      Nghe xong, quan ngự y bèn đến nơi, hỏi han dân chúng. Các ông kỳ lão đều tỏ vẻsợ hãi, trình bày đầu đuôi sự việc. Hằng năm, đúng dịp, hai con Mãng Xà vương từ ngoài biển khơi vịnh Xiêm La đến khuấy rối xóm làng. Đôi mãng xà vương nọ to như cái khạp da bò, khi chúng đến cả khu rừng rung chuyển, nổi giông gió, sập nhà cửa. Dân làng khấn vái, hứa nạp cho mãng xà vương hằng năm hai đứa trẻ. Nhờ vậy, mãng xà vương không còn hung hăng như trước.

      Nhìn qua cuộc lễ, quan ngự y vô cùng xúc động, nhất là khi ông thấy hai đứa trẻ vô tội kia.

      Quan ngự y hỏi nhanh:

      - Chừng nào mãng xà vương đến?

      Các ông kỳ lão thưa:

      - Dạ, tối mai, vào khoảng canh ba, giờ tý.

      - Các ông cứ yên trí, nghe lời tôi.

      - Dạ rủi bề gì "họa hổ bất thành", gây thêm tai hại cho dân trong xóm...

      - Đừng ngại, ta cứ làm như ầy, như vầy. Điều quan trọng là đừng tiếc lộ trước, e dân chúng xôn xao làm cho kế hoạch có thể thất bại.

      Thế là ngày hôm sau đích thân quan ngự y điều khiển vài người dân tín cẩn, bảo họ tìm hai con chó thật mập, đem về cạo lông, mổ ruột tại căn chòi xa vắng tận núi rừng.

      Mặt khác quan ngự y truyền cho quân sĩ tán vài vị thuốc cho thật nhuyễn. Đâu đó xong xuôi, quan bèn dạy họ bỏ thuốc tán ấy vào bụng hai con chó, may ruột kín mít.

      Để hôm sau, dân chúng tề tụ đến sân lễ. Cha mẹ của hai đứa bé ấy khóc lóc thảm thiết khi nhìn thấy con mình bị nhịn đói, ngất xỉu trong bầu không khí đầy khói trầm ngột ngạt.
      Đến canh hai, các ông kỳ lão đứng ra, kêu gọi dân chúng:

      - Bà con hãy an tâm, rút lui vào nhà. Đừng lấp ló nghoài cửa mà chết oan mạng.

      Ai nấy ngơ ngác nhưng rốt cuộc đành tuân lời. Riêng có cha mẹ và thân nhân của hai đứa bé thì cứ lăn ra mà khóc mãi.

      Chờ khi mọi người đã khuất dạng, quan ngự y Nguyễn Hữu Long nói với cha mẹ của hai nạn nhân nọ:

      - Bây giờ các ngươi cứ tự tiện đem con về đừng cho chòm xóm hay biết.

      Họ ngơ ngác:

      - Chúng tôi sợ mãng xà vuơng trả thù.

      - Thôi, cứ đi mau. Lát nữa đây, ta đủ tài trí ứng phó.

      Sau đó, theo lệnh của quan ngự y, quân sĩ đem hai con chó dồn thuốc nọ ra sân. Quân sĩ dựng hai con chó theo dáng điệu của đứa bé quì. Họ dùng mực và son để tô miệng và mắt xác chó giống với dáng điệu đứa bé.

      Quan ngự y căn dặn lần chót:

      - Các anh nào chuẩn bị nước sơn? Đã tới chưa?

      Vừa dứt lời, cây rừng chuyển răng rắc như giông bão. Quan ngự y khoát tay, bảo những người còn lại:

      - Chúng ta hãy núp thật kỹ để chờ cơ hội...

      Ngoài sân đỉnh trầm bay nghi ngút. Hai con chó bị cạo lông, xem trắng phếu, mơ hồ giống như hai đứa bé. Bỗng đâu, giông gió im bặt. Hai con mãng xà vương xuất hiện, bò sát đất, từ từ xáp lại gần đỉnh trầm rồi dựng mình lên, khoe cái mồng khá to, múa qua múa lại.

      Quan ngự y mừng thầm nói với quân hầu:

      - Chúng nó quá tin hai con chó. Trước khi đớp mồi, mãng xà vương còn giỡn mồi. Rõ ràng chúng đi có cặp, một con đực một con cái.

      Vài phút sau, hai con mãng xà quấn lấy mồi nuốt trọng vào họng rồi bò tới bò lui, dáng điệu ngày càng uể oải.

      Chất thuốc mê hồn, ngấm dần...

      Chẳng bỏ lỡ cơ hồi, quan ngự y khoát tay ra hiệu lịnh. Bọn quân hầu đem nước sơn ra, tiến dè dặt đến bên cạnh hai con ác thú.

      - Sơn cho nhanh lên, mỗi con một màu khác nhau.

      Mãng xà nằm mê man. Quân hầu tha hồ sơn phết: Con đực màu xanh, con cái sơn đỏ.

      Các vị kỳ lão hỏi khẽ:

      Tại sao thương quan chưa ra lịnh giết nó?

      Quan ngự y đáp:

      - Thế của nó tuy vậy chớ vẫn còn mạnh. Quân hầu của ta chỉ gồm vài người, nhưng ta bảo đảm từ rày về sau chúng nó sẽ chẳng dám trở lại gây rối nữa.

      Hai con mãng xà bỗng cựa quậy vì chất thuốc "mê hồn" lần lần mất công hiệu. Nhưng khi nhìn nhau, trông thấy những màu sắc kỳ lạ, chúng trở nên hoảng hốt, xem nhau như kẻ thù khác loại quá xa lạ. Thế là con mãng xà đực và con mãng xà cái nổi giận, cắn nhau, trượt nhau như giông như gió, đi mất dạng về phía vịnh Xiêm La.

      Từ đó về sau, chẳng bao giờ đôi mãng xà nọ trở lại đất liền nữa.

Leave a Reply